Khó có thể hạ thấp vai trò quan trọng của cuộc chiến Ukraine, vốn được xem là hệ quả đáng lo ngại của cuộc khủng hoảng kéo dài 20 năm từ năm 2001 đến năm 2021. Cuộc xung đột này là bước ngoặt địa chính trị đáng chú ý nhất của thế kỷ 21 vì một số lý do: Cán cân quyền lực toàn cầu trong hệ thống quốc tế bị đe dọa trong cuộc đối đầu hết sức phức tạp trong một số không gian chồng chéo nhau như trên chiến trường thực địa, trong lĩnh vực kinh tế, tài chính-tiền tệ, thông tin, năng lượng, không gian mạng và thậm chí là hệ tư tưởng. Một đặc điểm đáng chú ý khác là mọi thứ có thể dễ dàng vượt khỏi tầm kiểm soát và khiến tình hình căng thẳng tới mức nguy hiểm do một số yếu tố, bao gồm (1) sự hỗ trợ của phương Tây dành cho Ukraine thông qua việc cung cấp vũ khí, tiền bạc và thông tin tình báo (cuối cùng, Nga có thể quyết định nhắm mục tiêu vào các tuyến vận chuyển những mặt hàng này); (2) sự hiện diện của các biệt đội tác chiến và cố vấn quân sự phương Tây tại Ukraine; (3) căng thẳng gia tăng giữa Nga và các thành viên Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) như Ba Lan và các nước Baltic; (4) sự xuất hiện đồng thời của các hành động thù địch tại các điểm nóng như Kaliningrad, Transnistria và Kosovo; (5) các vụ ám sát nhằm vào các mục tiêu có giá trị cao hoặc các hành động phá hoại nhằm vào các cơ sở hạ tầng quan trọng; (6) các sai lầm chiến thuật; (7) cuộc tấn công hạt nhân của Kremlin và việc dàn dựng các cuộc tấn công mạng nhằm vào các thành viên NATO; (8) bất ổn tiềm tàng ở Nga, hoặc tự phát hoặc do các cường quốc phương Tây kích động; và (9) bầu không khí thù địch, sự thiếu tin tưởng, sợ hãi và khinh miệt lẫn nhau, cũng như ảnh hưởng của những tuyên bố hung hăng, thiếu tính thỏa hiệp.
Hơn nữa, đây không phải là sự kiện xảy ra ở khu vực ngoại vi. Trên thực tế, vùng trung tâm Á-Âu – khu vực then chốt cần được kiểm soát đối với những thế lực muốn thống trị thế giới – đang là mục tiêu của cuộc tranh giành, vốn chưa từng xảy ra trên quy mô lớn như vậy kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Tương tự, sự tham gia của các bên chủ chốt cũng là điều đáng chú ý. Đối với Nga, đây gần như là một cuộc chiến vì sự sống còn và cũng là một canh bạc nguy hiểm. Thành công trong cuộc chiến này có thể giúp khôi phục vai trò của Nga là một trong những lực lượng chính cần được công nhận và đảo ngược những thất bại nhục nhã mà nước này đã phải gánh chịu sau khi Liên Xô sụp đổ, điều mà Tổng thống Vladimir Putin xem là một thảm họa địa chính trị to lớn bởi sự tổn thất chiến lược mà nó gây ra. Đối với Mỹ, Anh và những quốc gia cũng ủng hộ sự hợp tác giữa hai bờ Đại Tây Dương, cuộc khủng hoảng này mang lại cơ hội rút cạn tài nguyên của Nga cho đến khi nước Nga sụp đổ mà không phải chiến đấu với họ. Đây cũng là cơ hội để tăng cường sự gắn kết trong khối NATO. Do đó, theo quan điểm của phương Tây, sự suy tàn của Nga sẽ là bước đầu tiên trong việc hình thành một nỗ lực tập thể hoặc liên minh để bao vây và tấn công Trung Quốc, vốn được người Mỹ và các đồng minh hàng hải xác định là đối thủ cạnh tranh chiến lược hàng đầu trong những thập kỷ tới. Vì vậy, cuộc chiến ở Ukraine có thể làm suy yếu các kế hoạch đầy tham vọng của Nga nhằm tái khẳng định vị thế của mình – vừa là một trục địa kinh tế Âu-Á, vừa là một siêu cường mà sẽ tiếm quyền bá chủ của Mỹ bằng các biện pháp hòa bình (nghĩa là các biện pháp phi quân sự). Tuy nhiên, Bắc Kinh không thể tham gia trực tiếp bởi các tác động tiêu cực tiềm tàng liên quan đến nguy cơ xảy ra chiến tranh kinh tế. Do vậy, có những động lực mạnh mẽ khiến các bên khó lòng nhượng bộ. Ít nhất trong thời gian hiện tại, việc lùi bước để đạt được một thỏa thuận thông qua thương lượng sẽ đồng nghĩa với việc chấp nhận thất bại. Trong khi đó, các bên nặng ký trong cuộc chiến này có những lý do mạnh mẽ để đối đầu gay gắt cho đến khi đối thủ của họ bị đánh bại hoàn toàn.
Mặt khác, đối với các cường quốc châu Âu như Pháp và Đức, cuộc chiến Ukraine là yếu tố làm thay đổi cuộc chơi, là lời đánh thức đột ngột và là lời nhắc nhở quan trọng rằng sự lơ là chiến lược và sự mơ mộng về hòa bình vĩnh cửu đều dẫn tới thảm họa. Vẫn còn phải xem liệu Paris và Berlin có trở lại với truyền thống điều hành đất nước trên cơ sở tri thức, vốn bắt nguồn từ quan điểm coi trọng lợi ích quốc gia và tư tưởng chính trị thực dụng mà họ đã gìn giữ và phát huy trong nhiều thế kỷ và liệu nếu số phận của họ có bị đe dọa bởi những thực tế ngoài tầm kiểm soát hay không. Đối với tất cả những nước khác (đặc biệt là các cường quốc khu vực), cuộc chiến này mang lại những tình huống khó xử, thách thức, rủi ro và cơ hội. Do đó, những quốc gia đang tìm cách tái khẳng định vị thế của mình là các cường quốc mới nổi như Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Iran, Israel, Brazil và Mexico nhận thức được rằng cuộc chiến Ukraine sẽ góp phần định hình lại môi trường và lợi ích quốc gia của chính họ. Những dàn xếp địa chính trị tương ứng của họ có thể sẽ được tái định hướng trong tương lai gần. Trong lúc này, họ có thể bình tĩnh chờ đợi cho đến khi có kết quả rõ ràng để quyết định đi nước đôi hoặc chọn bên.
Do đó, sẽ sớm có câu trả lời cho câu hỏi mọi thứ sẽ diễn ra như thế nào trong thời gian tới. Xung đột hết sức phức tạp và có hàng chục biến số cần được tính đến. Tuy nhiên, có thể dựa vào tầm nhìn chiến lược để phát hiện quỹ đạo của hiện tượng này. Do vậy, mục đích của các kịch bản giả định dưới đây là giúp các bên có thể bình tĩnh suy xét mọi thứ và hướng sự chú ý của họ vào các mối đe dọa trong giai đoạn hiện tại đầy biến động mà có thể để lại hậu quả cho nhiều thế hệ. Mặc dù đây không phải là lĩnh vực của ngành khoa học chính xác, nhưng những kỹ thuật của ngành này rất hữu ích trong việc phát triển nhận thức tình huống.
Kịch bản 1: Nga giành chiến thắng
Sau cuộc Cách mạng Cam năm 2004 và các cuộc biểu tình Euromaidan nổ ra một thập kỷ sau đó, những sự kiện đều kích động sự trỗi dậy của các chính phủ ủng hộ phương Tây ở Kiev, Nga đã cố gắng đưa Ukraine trở lại quỹ đạo địa chính trị của mình. Nếu Nga không kiểm soát được Ukraine (dù trực tiếp hay gián tiếp), đặc biệt là nếu Ukraine tham gia một liên minh quân sự thù địch như NATO, thì an ninh quốc gia Nga sẽ bị đe dọa. Do đó, Moskva đã thực hiện một loạt biện pháp gia tăng áp lực nhằm thay đổi định hướng chiến lược của Kiev, nhưng không bên nào thành công. Khi mọi nỗ lực đều thất bại, Điện Kremlin đã đưa ra một tối hậu thư yêu cầu phương Tây nhượng bộ và phân bổ lại phạm vi ảnh hưởng. Tuy nhiên, tối hậu thư này không được chú trọng. Do đó, người Nga quyết định rằng cách duy nhất để ngăn chặn Ukraine trở thành một mũi giáo chống lại Nga là sử dụng vũ lực. Là các cựu điệp viên của Ủy ban an ninh quốc gia (KGB) – cơ quan tình báo của Liên Xô (trước đây), Vladimir Putin và những nhân vật chủ chốt khác trong bộ máy chính trị Nga có thể kết luận rằng chiến dịch sẽ diễn biến theo chiều hướng bất lợi và sẽ vấp phải sự phản đối gay gắt, nhưng họ vẫn quyết định tiếp tục vì lợi ích thu được sẽ lớn hơn phí tổn. Do đó, kết quả then chốt mà người Nga tìm cách đạt được là chinh phục Ukraine bằng quân sự hoặc phá hủy nước này để họ không thể đặt ra mối đe dọa đáng kể đối với Nga trong những thập kỷ tới.
Những bằng chứng đến nay cho thấy Nga sẽ cố gắng sáp nhập Donbass, bờ biển phía Nam và thậm chí là hầu hết khu vực phía Đông sông Dnieper như tỉnh Novorossiya. Những khu vực này có các tài sản chiến lược như tài nguyên thiên nhiên, cơ sở hạ tầng công nghiệp, các cảng biển đóng vai trò cửa ngõ thương mại quốc tế và phần đông dân chúng vẫn duy trì các mối quan hệ văn hóa-xã hội với thế giới Nga. Chưa biết điều gì sẽ xảy ra với phần còn lại của Ukraine nếu Nga giành ưu thế tuyệt đối. Tuy nhiên, việc chiếm Kiev – hoặc ít nhất là thúc đẩy sự thay đổi chế độ – sẽ là yếu tố cần thiết để ngăn chặn sự hình thành một nền chính trị phù hợp với phương Tây. Nếu Nga giành chiến thắng, thì họ sẽ lật đổ và thay thế chính phủ do Volodymyr Zelensky đứng đầu bằng một chính quyền có liên kết chặt chẽ với Moskva về mọi mặt. Khi đó, chính quyền mới hầu như sẽ không có lựa chọn nào khác ngoài việc dựa vào Nga ở nhiều mặt, bao gồm cả an ninh, năng lượng và trao đổi kinh tế.
Điều này sẽ càng thôi thúc Nga xâm chiếm Moldova hoặc ít nhất là tăng cường sự hiện diện quân sự ở Transnistria, nhất là nếu Điện Kremlin chiếm được Odessa. Nếu không, việc Moldova được kết nạp vào NATO và/hoặc EU sẽ chỉ là vấn đề thời gian. Khu vực Bessarabia, gần như tương ứng với Moldova hiện nay, vừa là chỗ dựa địa chính trị, vừa là một hành lang gần dãy núi Karpat. Hành động đột phá này sẽ thúc đẩy vai trò của Nga là cường quốc bá chủ trong không gian hậu Xôviết (bao gồm Đông Âu, Trung Á và Ngoại Kavkaz), một thực tế sẽ củng cố các cấu trúc đa phương khu vực được Moskva hậu thuẫn, bao gồm Liên minh kinh tế Á-Âu và Tổ chức Hiệp ước an ninh tập thể. Rõ ràng đây sẽ là kịch bản tốt nhất cho Điện Kremlin.
Trong khi đó, Tây Ukraine lại là một vấn đề hoàn toàn khác. Xét về lịch sử, bản sắc và nhân khẩu học của khu vực, hành động chiếm đóng của Nga có thể dẫn đến một cuộc phản kháng dữ dội và quyết liệt mà nước này tốt nhất nên tránh. Do đó, theo quan điểm của Nga, việc chia cắt Ukraine để ngăn chặn một diễn biến như vậy cũng như để đưa ra những nhượng bộ hấp dẫn đối với các quốc gia châu Âu ở khu vực lân cận như một “nhánh ô liu” giúp giảm thiểu căng thẳng là điều đáng cân nhắc. Do đó, khi xem xét các mẫu số chung về mặt sắc tộc, Ba Lan có thể ngừng sáp nhập Galicia và Hungary có thể nuốt chửng Transcarpathia. Việc chia sẻ chiến lợi phẩm với Vacsava và Budapest thoạt đầu nghe có vẻ kỳ quặc nhưng không hẳn là ý tưởng ngu ngốc, vì Moskva cũng hy vọng rằng hậu quả của cuộc chiến tranh Ukraine sẽ kích hoạt một chuỗi sự kiện làm rung chuyển lục địa châu Âu.
Cái giá của việc tấn công Ukraine đối với Nga là các biện pháp trừng phạt về kinh tế và tài chính. Tuy nhiên, một vài biện pháp trừng phạt trong số này cũng tác động tiêu cực đến một số nền kinh tế châu Âu. Xét từ khía cạnh này, có thể nói lợi thế đang nghiêng về phía Moskva. Nga tự hào về khả năng chịu đựng khó khăn và họ chưa bao giờ thịnh vượng như các quốc gia phương Tây giàu có nhất. Do đó, Điện Kremlin tin rằng Nga phục hồi và chịu đau tốt hơn các xã hội Tây Âu. Theo quan điểm của Nga, người dân EU đã quen với cuộc sống tiện nghi, gắn bó với thế giới quan hậu hiện đại và miễn cưỡng thừa nhận những gì mà khái niệm tinh hoa chính trị mang lại trong những hoàn cảnh khó khăn theo học thuyết của Thomas Hobbes. Do đó, Nga hy vọng rằng việc lợi dụng tình trạng phụ thuộc lẫn nhau như một thứ vũ khí theo học thuyết “chiến tranh đa hình thức” và việc huy động các lực lượng ngang hàng phi đối xứng sẽ làm gia tăng tình trạng hỗn loạn chính trị và kinh tế trong các xã hội Tây Âu. Hơn nữa, Moskva đang tận dụng nhiều yếu tố khác nhau để kích động một cuộc khủng hoảng trên diện rộng giống như ở Weimar. Do đó, sự thiếu thốn lương thực kết hợp với tình trạng khan hiếm phân bón, bất ổn xã hội, gián đoạn nguồn cung năng lượng, sự gia tăng làn sóng người nhập cư từ khu vực Trung Đông-châu Phi, áp lực tâm lý và tác động tiêu cực trong ngắn hạn của các chính sách môi trường không được nhiều người ủng hộ sẽ khiến chính phủ một số nước EU, đặc biệt là Đức, Pháp và Italy, sụp đổ. Đối với Nga, việc các nhà lãnh đạo châu Âu ủng hộ sự hợp tác quân sự giữa hai bờ Đại Tây Dương bị thay thế bằng các nhân vật đại diện cho các lực lượng dân tộc chủ nghĩa và/hoặc các chính khách theo chủ nghĩa hiện thực là điều thuận lợi. Việc Berlin, Paris hoặc Rome rời bỏ NATO theo quan điểm của một số người là điều khó xảy ra, nhưng Moskva tin rằng họ có thể đạt được một số thỏa hiệp mang tính thực tế với các nhà lãnh đạo như vậy.
Kịch bản này nếu trở thành hiện thực sẽ tác động đến Trung Quốc và Mỹ. Đối với Bắc Kinh, việc Nga giành chiến thắng sẽ thúc đẩy Trung Quốc theo đuổi chương trình nghị sự theo chủ nghĩa xét lại ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, đồng thời tạo điều kiện cho họ thực hiện các kế hoạch địa kinh tế đầy tham vọng đối với lục địa Á-Âu. Tương tự, nhu cầu tái thiết sau chiến tranh sẽ mở ra cơ hội kinh doanh thuận lợi cho các công ty và tổ chức ngân hàng Trung Quốc. Đối với Washington, đây sẽ là một thất bại lớn, nhưng chưa chắc là cơn ác mộng. Giấc mơ đóng băng lịch sử dưới sự lãnh đạo đơn cực của Mỹ sẽ tan biến và một thành công của Nga sẽ tạo ra một kỷ nguyên đa cực. Đến lượt mình, châu Âu sẽ tham gia một cuộc chiến tranh lạnh mới, điều có thể quản lý được về mặt chiến lược chừng nào các bên vẫn còn suy nghĩ sáng suốt. Mỹ sẽ không có lựa chọn nào khác ngoài việc tăng cường sự hiện diện quân sự ở châu Âu để kiểm soát quyền lực của Nga, khuyến khích việc giảm căng thẳng trong quan hệ để ngăn chặn chiến tranh hạt nhân và đảm bảo rằng các thành viên cốt lõi của NATO vẫn thống nhất về mặt chính trị và duy trì một chương trình nghị sự chiến lược chung.
Kịch bản 2: Xung đột kéo dài
Theo kịch bản này, sẽ không có bên nào giành được thắng lợi rõ ràng. Nga sẽ ngừng kiểm soát nhiều phần đáng kể của miền Nam và miền Đông Ukraine, nhưng họ sẽ không thể chinh phục phần còn lại của đất nước hoặc chiếm được Kiev. Trong khi đó, nhờ sự hỗ trợ hào phóng của NATO, Chính phủ Ukraine sẽ cố gắng giành lại lãnh thổ từ tay Nga và thậm chí là chiếm lại Crimea. Hơn nữa, Kiev sẽ tích cực hỗ trợ lực lượng dân quân nổi dậy và Nga sẽ không có lựa chọn nào khác ngoài việc thực hiện các cuộc phản kích. Không bên nào sẵn sàng xuống nước và cuộc chiến sẽ kéo dài vô thời hạn. Đây là điều Henry Kissinger ám chỉ khi nói rằng cuộc xung đột cuối cùng có thể sẽ giống như phiên bản hiện đại của cuộc Chiến tranh 30 năm. Xét ở khía cạnh này, ý tưởng của phương Tây về biến Ukraine thành một hố đen làm cạn kiệt tài nguyên của Nga cho đến khi sức mạnh của nước này suy yếu đáng kể là điều đáng suy ngẫm.
Vấn đề là nếu xung đột tiếp diễn, thì khả năng căng thẳng leo thang là không đổi. Chẳng hạn, nhà máy điện hạt nhân Zaporizhzhia nếu bị hư hại, dù là do sự vô tình hay cố ý, có khả năng phát tán bụi phóng xạ, gây hậu quả đáng kể về mặt chính trị. Hơn nữa, việc không đạt được một chiến thắng quyết định sẽ đặt Moskva vào thế bất lợi. Một số nhà hoạch định chính sách phương Tây cho rằng việc Nga tấn công Ukraine cũng giống như việc Liên Xô trước đây can thiệp quân sự vào Afghanistan. Tuy nhiên, phép so sánh này là không thỏa đáng. Cuộc tấn công của Nga vào Ukraine là hành động vì sự sống còn xuất phát từ cảm giác bất an, trong khi cuộc tấn công của Liên Xô vào Afghanistan là hành động mang tính lựa chọn của một siêu cường nhằm tranh giành quyền bá chủ toàn cầu. Do đó, theo kịch bản này, Điện Kremlin có thể dựa vào vũ khí hạt nhân chiến thuật để xoay chuyển tình thế trên chiến trường. Như giáo sư John Mearsheimer đã lập luận, theo quan điểm của Nga, nếu họ không chiếm được Ukraine thì họ sẽ đảm bảo rằng không ai khác có thể làm được điều này, ngay cả khi điều đó có nghĩa là Ukraine bị phá hủy. Ngoài ra, vị thế của Tổng thống Vladimir Putin sẽ bị tổn hại nếu Nga không giành chiến thắng. Điều đó có nghĩa là Putin đã hy sinh rất nhiều mà hầu như chẳng thu được gì. Trong những trường hợp như vậy, có thể có sự thay đổi chế độ ở Moskva, nhưng Putin sẽ không bị thay thế bởi một nhà cải cách ủng hộ phương Tây mong muốn làm hòa. Nhiều khả năng người kế nhiệm ông sẽ là một nhân vật thậm chí còn cứng rắn hơn và nôn nóng muốn giành chiến thắng như đã hứa.
Kịch bản 3: Sự bế tắc khó chịu
Kịch bản này hiện khó có thể xảy ra vì giới chính trị chưa quyết tâm tiến tới thỏa thuận, nhưng một thỏa hiệp ngoại giao có thể đạt được nếu tất cả các bên đều cảm thấy thất vọng và kiệt sức hoặc nếu họ đều nhất trí rằng việc tiếp tục chiến tranh là điều quá nguy hiểm. Do đó, để hiện thực hóa kịch bản này, giới chính trị cần thừa nhận rằng không thể giải quyết khủng hoảng thông qua vũ lực. Nga có thể có được sự đảm bảo rằng Ukraine sẽ tuân thủ nghiêm ngặt một chính sách trung lập. Và để đổi lấy hòa bình, phương Tây có thể đưa ra nhượng bộ bằng việc đảm bảo rằng Kiev sẽ không gia nhập NATO. Hơn nữa, để các nước công nhận Ukraine là vệ tinh của Nga, Moskva có thể nhượng bộ ở những nơi như Trung Đông, Mỹ Latinh và châu Phi. Sau tất cả, ở những khu vực đó, Điện Kremlin đã tích lũy được những lợi thế mà có thể được dùng để đổi lấy những thứ quan trọng hơn. Ukraine sẽ giống như Áo trong Chiến tranh Lạnh. Ngoài ra, các sự kiện trên chiến trường có thể quyết định việc phân chia lãnh thổ cuối cùng.
Tuy nhiên, ý tưởng “đóng băng cuộc xung đột” không phải là giải pháp vĩnh viễn, mà sẽ chỉ là một lệnh ngừng bắn tạm thời. Do đó, nếu không giải quyết triệt để việc phân chia lại phạm vi ảnh hưởng – ở châu Âu và những nơi khác – và việc xác định lại cấu trúc an ninh châu Âu dựa trên lôgích đa cực, thì sự không tương thích giữa các lợi ích địa chính trị sớm muộn sẽ lại dẫn đến xung đột. Nếu không thì cả Moskva và NATO sẽ phải “câu giờ” cho đến khi cuộc đối đầu tiếp theo diễn ra và các điểm nóng khác sẽ tiếp tục nóng lên.
Kịch bản 4: Nga sụp đổ
Đây là kết quả mà các nhà hoạch định chính sách ủng hộ hợp tác giữa hai bờ Đại Tây Dương và các nhà tư tưởng theo trường phái tân bảo thủ đều ưa thích. Theo kịch bản này, Nga sẽ hứng chịu một thất bại toàn diện do sự kháng cự quyết liệt của Ukraine và sự kết hợp giữa các biện pháp trừng phạt kinh tế của phương Tây. Điều này sẽ dẫn đến sự rút lui của quân đội Nga khỏi Ukraine và sự sụp đổ của toàn bộ giới tinh hoa cầm quyền của nước này. Sau đó, Nga sẽ xa rời truyền thống đế quốc, từ bỏ tham vọng địa chính trị ở các nước thuộc Liên Xô trước đây và theo đuổi các mô hình chính trị, xã hội, kinh tế và tư tưởng phương Tây. Về phần mình, Ukraine sẽ trở thành thành viên chính thức của NATO, điều giúp Ukraine giữ được khoảng cách với các lực lượng của Nga. Dựa trên nhận định rằng việc can thiệp quân sự vào Afghanistan là yếu tố then chốt dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô, một số nhà bình luận thậm chí còn đi xa hơn khi tuyên bố rằng việc tấn công Ukraine sẽ khiến Nga sụp đổ và bị chia tách thành một số nước nhỏ, mà một vài trong số đó sẽ không có lựa chọn nào khác ngoài việc đi theo định hướng ủng hộ phương Tây.
Tuy nhiên, kịch bản này sẽ gây rắc rối lớn. Việc “Balkan hóa” nước Nga sẽ gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng do có sự tồn tại của một kho vũ khí hạt nhân quy mô lớn và sự hiện diện của đủ loại tài nguyên thiên nhiên. Không thể biết được một kịch bản như vậy sẽ diễn ra như thế nào. Tuy nhiên, giống như hiện tượng mao dẫn, khoảng trống quyền lực do Moskva để lại sẽ thu hút nhiều nước: Ba Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và Iran sẽ tranh nhau tận dụng cuộc khủng hoảng đang diễn ra, gây lo lắng cho toàn bộ lục địa Á-Âu. Hơn nữa, sự bùng nổ của các cuộc nội chiến, sự trỗi dậy của các cường quốc Hồi giáo và sự xuất hiện của xung đột sắc tộc là những điều có thể xảy ra. Hơn nữa, nếu không có vai trò của Nga như một chỗ dựa địa chính trị, thì sự hỗn loạn sẽ nhấn chìm phần lớn không gian hậu Xôviết, dẫn tới sự bùng phát của các cuộc xung đột địa phương. Tuy nhiên, sự hỗn loạn này sẽ không được chào đón ở Washington, cho dù hệ quả của nó có thể được kiểm soát, bởi điều này đồng nghĩa với sự ra đi của một đối thủ mạnh mẽ và cản trở Trung Quốc hoàn thành các kế hoạch nhằm khẳng định vai trò của họ là nền tảng của một mạng lưới địa kinh tế rộng lớn bao trùm toàn bộ khối lục địa Á-Âu. Khi Nga không còn tồn tại, Mỹ và các đồng minh sẽ có thể tập trung mọi nỗ lực vào việc chống lại Trung Quốc.
Kết luận
Các kịch bản được trình bày ở trên cho thấy sau cuộc chiến Ukraine, hệ thống quốc tế sẽ không trở lại trạng thái cũ. Trên thực tế, cuộc xung đột sẽ tạo ra những chấn động lớn, làm thay đổi mạnh mẽ mối quan hệ giữa các lực lượng địa chính trị. Hơn nữa, chưa có một giải pháp dễ dàng nào trước mắt và mọi kết quả có thể tưởng tượng được đều có vấn đề. Do đó, sự kiện này sẽ mở ra một kỷ nguyên ngày càng bất ổn và nguy hiểm. Trật tự thế giới đang được thiết lập lại và thế giới sẽ nằm trong tay những kẻ khôn ngoan và mạnh mẽ nhất. Đây được tiên đoán sẽ là một thời đại thú vị, khi mà cuộc sống của hàng triệu người thuộc nhiều thế hệ sẽ được định hình lại. Cuối cùng, trật tự mới sẽ xuất hiện trên đống tro tàn của trật tự cũ. Lịch sử cho thấy sự tái cấu trúc cán cân quyền lực là hiện tượng thông thường chứ không phải ngoại lệ. Sau tất cả, bản chất của con người vẫn không thay đổi kể từ thời của các Pharaoh và một hệ thống quốc tế không theo nguyên tắc chiếm ưu thế. Cần phân biệt rõ ràng giữa mong muốn và thực tại. Để hiểu biết thấu đáo về khoa học chính trị và quan hệ quốc tế, cần dựa trên những giả định như vậy để đưa ra những diễn giải chính xác, khai thác thông tin tình báo chiến lược như một công cụ để nâng cao tâm thế sẵn sàng chiến đấu và tăng cường năng lực quản lý đất nước. Vậy tại sao thế kỷ 21 lại khác? Mặc dù có những luận điệu hoa mỹ, nhưng không có cái gọi là “vòng cung vũ trụ đạo đức uốn cong về phía công lý hay sự tiến bộ”. Đó là ảo tưởng ngây thơ, nếu không muốn nói là ảo tưởng nguy hiểm mà có thể dẫn đến hậu quả thảm khốc. Trên thực tế, càng có nhiều thay đổi trong cuộc tranh giành quyền lực vô tận, thì mọi thứ càng có xu hướng bất biến và những gì xảy ra sẽ lặp lại trong tương lai./.
(Theo TTXVN)
Tác giả: Trần Thị Quyên