Vào ngày 24/6, tám máy bay chiến đấu của Trung Quốc đã bay qua eo biển Đài Loan. Lực lượng không quân của Đài Loan đã triển khai các máy bay phản lực của họ để đáp trả, như họ vẫn thường làm hằng ngày. Nhưng lần này, máy bay của Quân đội Giải phóng nhân dân đã bay gần hơn so với trước đây, tiến sát tới phạm vi 12 hải lý của Đài Loan, trước khi quay trở lại.
Bộ Quốc phòng Đài Loan đã cảnh báo rằng bất kỳ hành động xâm phạm mạnh mẽ nào vào không phận hoặc vùng biển của Đài Loan, họ sẽ có quyền “phản công để tự vệ”. Sau đó theo một quan chức an ninh, máy bay quân sự của Trung Quốc còn đến gần ít nhất một lần nữa.
Các chuyến bay là một phần trong nỗ lực siết chặt dần dần mà PLA đang áp đặt lên Đài Loan, điều mà cả Đài Bắc và Washington, đồng minh gần như duy nhất của họ, đã không thể ngăn chặn hoặc thậm chí làm chậm lại.
Quân đội Trung Quốc đang tiến hành cái mà các chuyên gia quốc phòng gọi là chiến thuật vùng xám: họ đang tăng cường sự hiện diện của mình gần Đài Loan từng bước một, nhưng đồng thời vẫn ở dưới ngưỡng có thể coi là một hành động chiến tranh.
Bất chấp sự chú ý toàn cầu đang đổ dồn vào viễn cảnh Trung Quốc tấn công Đài Loan, các nhà hoạch định quân sự của nước này cũng lo ngại về một mối đe dọa rất khác, dần hiện hữu. Họ lo lắng cái gọi là chiến thuật “tằm ăn dâu” mà Bắc Kinh đang áp dụng hiện nay đang dần thay đổi hiện trạng, từng bước một và cuối cùng có thể tước đi khả năng tự vệ của Đài Loan.
Do đó, một số chuyên gia quốc phòng tin rằng chiến lược răn đe Trung Quốc của quân đội Mỹ đã bị định hướng sai vì họ tập trung quá nhiều vào một cuộc tấn công hơn là các chiến thuật gây áp lực này.
Kristen Gunness, chuyên gia về PLA tại Rand Corporation, một tổ chức tư vấn của Washington, cho biết: “Bộ Quốc phòng quá tập trung vào kịch bản tấn công Đài Loan một cách thiển cận đến mức họ đang bỏ qua mối đe dọa hiện tại. “[Xâm phạm] là điều mà tất cả chúng ta đã lên kế hoạch trong nhiều năm và thật khó để thoát khỏi điều đó. Ngoài ra, đó là điều mà họ [quân đội Hoa Kỳ] biết cách thực hiện”.
Kể từ tháng 9 năm 2020, khi Đài Loan lần đầu tiên bắt đầu công bố dữ liệu về hoạt động quân sự của Trung Quốc trong vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) của họ, số vụ PLA xâm phạm ADIZ của Đài Loan hàng tháng đã tăng vọt từ 69 lên 139 vào tháng 7 này.
ADIZ là một vùng đệm tự tuyên bố trong không phận quốc tế, trong đó các quốc gia giám sát hoạt động của các chuyến bay để phát hiện các mối đe dọa an ninh tiềm ẩn. Nhưng vì không phận phía trên vùng tiếp giáp nằm ngoài quyền kiểm soát của Đài Loan, hành vi của PLA không vi phạm luật pháp quốc tế.
Các chiến lược gia Đài Loan đang gióng lên hồi chuông cảnh báo về sự xâm lấn gia tăng và khó khăn trong việc đưa ra phương thức đối phó hiệu quả cho thách thức này.
Lee Jyun-yi, một chuyên gia về xung đột vùng xám tại Viện Nghiên cứu Quốc phòng và An ninh, cơ quan cố vấn của Bộ Quốc phòng ở Đài Bắc, cho biết: “Họ muốn đe dọa chúng tôi, kiểm tra khả năng của chúng tôi và làm suy yếu khả năng phòng thủ của chúng tôi. Và theo thời gian, họ sẽ tăng cường kiểm soát đối với Eo biển Đài Loan, đồng thời thay đổi tình trạng pháp lý của nó”. Trong một báo cáo nói về khả năng răn đe được công bố vào thứ Sáu do Lee biên tập, các nhà phân tích của INDSR đã đặt ra nghi ngờ nghiêm trọng về chiến lược răn đe của cả Đài Loan và Mỹ.
Tăng cường hoạt động
Trong ba năm qua, Bắc Kinh đã chuyển từ các chuyến bay không thường xuyên vào ADIZ của Đài Loan bằng một hoặc hai máy bay trinh sát hoặc vận tải quân sự sang các cuộc xâm nhập gần như hàng ngày của các nhóm máy bay lớn bao gồm máy bay ném bom, máy bay chiến đấu, máy bay tác chiến điện tử, máy bay tiếp nhiên liệu trên không và nhiều loại máy bay không người lái. Theo thống kê của Bộ Quốc phòng Đài Loan, PLA đã điều máy bay vào ADIZ của Đài Loan nhiều hơn 60% kể từ đầu năm nay với cùng kỳ năm ngoái.
Ngoài ra, PLA đã mở rộng khu vực hoạt động chủ yếu từ góc Tây Nam ADIZ của Đài Loan, ngã tư giữa eo biển Đài Loan, Biển Đông, Kênh Bashi kết nối cả hai với Thái Bình Dương, với không phận và vùng biển xung quanh Đài Loan.
Chính trong những thời điểm khủng hoảng chính trị, quân đội Trung Quốc đã thực hiện một số bước tiến quan trọng nhất.
Đường trung tuyến eo biển Đài Loan là một trường hợp điển hình. Trong nhiều thập kỷ, quân đội của cả hai nước phần lớn tôn trọng thỏa thuận ngầm đứng về phía họ trong đường phân chia không chính thức do quân đội Mỹ vạch ra vào năm 1955. Trong năm 2019 và 2020, Bắc Kinh đã vài lần cử máy bay quân sự đi ngang qua ranh giới này để bày tỏ sự tức giận về các chuyến thăm cấp cao tới Đài Bắc của các quan chức nội các của chính quyền Trump.
Sau đó, sau gần hai năm gián đoạn, PLA đã thực hiện hơn 300 lần vượt qua như vậy vào tháng 8 năm ngoái trong cuộc tập trận chưa từng có mà họ tổ chức quanh Đài Loan để “trừng phạt” hòn đảo này đã tổ chức tiếp đón Chủ tịch Hạ viện Hoa Kỳ lúc bấy giờ là bà Nancy Pelosi. Các sĩ quan PLA khoe khoang trên truyền hình nhà nước Trung Quốc rằng họ đã “xóa sổ” thành công đường trung tuyến. Kể từ đó, hàng chục máy bay PLA đã vượt qua ranh giới mỗi tháng. Sau khi máy bay của PLA tiếp cận vùng tiếp giáp của họ vào tháng trước, các quan chức quốc phòng Đài Loan lo ngại đây sẽ là ranh giới tiếp theo mà quân đội Trung Quốc đi qua.
Mặc dù Hải quân Mỹ vẫn tiếp tục các chuyến đi qua thường xuyên lên và xuống eo biển Đài Loan, nhưng quân đội Mỹ đã không có phản ứng trực tiếp nào đối với các động thái này của Trung Quốc.
Một số quan chức vẽ ra một đường song song với Biển Đông, nơi Bắc Kinh đang thực thi tuyên bố chủ quyền của mình trước một số nước láng giềng với chiến thuật “tằm ăn dâu” tương tự. Trong thập kỷ qua, Trung Quốc đã giành quyền kiểm soát một số thực thể địa lý từ các bên tranh chấp đối địch và từng bước xây dựng các cơ sở quân sự. Nhưng họ luôn giữ các hoạt động của mình dưới ngưỡng xung đột mở – một quá trình mà một số nhà phân tích cho rằng có thể đã bị ngăn chặn nếu Mỹ can thiệp sớm.
Một quan chức an ninh cấp cao Đài Loan nói. “Rủi ro ở đây cao hơn nhiều. Chúng tôi cần một số ý tưởng mới, kể cả từ bạn bè và đồng minh của chúng tôi, về khả năng răn đe.”
Nguyên nhân gốc rễ khiến Đài Bắc cảm thấy rằng đã làm được quá ít để ngăn chặn các hoạt động trong vùng xám của Trung Quốc là do sự bất đồng về hướng đi của các chiến thuật của PLA – cho dù chúng là khúc dạo đầu cho xung đột hay một hình thức gây áp lực.
Một số nhà quan sát Mỹ mô tả hai cuộc tập trận quy mô lớn của Bắc Kinh xung quanh Đài Loan vào tháng 8 năm ngoái và tháng 4 này là cuộc diễn tập phong tỏa Đài Loan, một động thái có thể vượt qua ngưỡng chiến tranh. Michael Mazarr, một chuyên gia về an ninh Đông Á tại Rand, cho biết: “Nếu những mô hình này lặp lại hai lần một năm, chúng ta có thể nói rằng chúng được thiết kế để thiết lập một kịch bản cho xung đột chung”. “Nếu quy mô của hai sự kiện đó không trở thành tiền lệ đối với những thứ thông thường, thì chúng ta có thể trở lại trạng thái ổn định, mặc dù ở mức độ hoạt động cao hơn.”
Cuộc tập trận bắn đạn thật Han Kuang hằng năm của Đài Loan trong tuần này cũng sẽ truyền tải cảm giác cấp bách về tình huống xấu nhất. Lần đầu tiên, các binh sĩ sẽ mô phỏng việc bảo vệ sân bay quốc tế lớn nhất của Đài Loan trước một cuộc tấn công trên không, đồng thời thực hành phá vỡ sự phong tỏa trên biển của Trung Quốc.
Nhưng Đài Bắc ít nhất cũng lo lắng về mối đe dọa đang diễn ra từ chiến thuật vùng xám của Bắc Kinh cũng như về nguy cơ bị tấn công trong tương lai.
“Ngay cả khi những người bạn Mỹ của chúng tôi chủ yếu lo lắng về một cuộc tấn công của Trung Quốc, chúng tôi cảm thấy rằng chúng tôi đang ở trên một loại chiến trường ở đây và bây giờ,” quan chức an ninh cấp cao Đài Loan nói.
Lee, nhà phân tích của INDSR, cho biết Bộ Quốc phòng “không quá lo lắng rằng các phong trào vùng xám đang dẫn đến một cuộc chiến toàn diện, mà coi chúng như một nỗ lực nhằm thay đổi dần hiện trạng ở eo biển Đài Loan”. Giám đốc tình báo của Đài Bắc trong tháng này mô tả chiến thuật của Trung Quốc mang ý “đe dọa hơn là gây hấn”.
Đánh giá đó phù hợp với các bài viết về chiến lược quân sự của Trung Quốc coi chiến thắng mà không cần chiến đấu. Trong hơn một thập kỷ, một phần nhiệm vụ của PLA điều mà giới lãnh đạo Trung Quốc gọi là các hoạt động quân sự khác với chiến tranh. Bên cạnh hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thiên tai và giải cứu công dân Trung Quốc ở nước ngoài trong các cuộc khủng hoảng. Những hoạt động này bao gồm “các hoạt động quân sự để bảo vệ an ninh quốc gia và lợi ích phát triển không trực tiếp dẫn đến chiến tranh” và “các hoạt động để bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia”, theo từ điển thuật ngữ quân sự của PLA.
Cui Lei, một nhà nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Quốc tế Trung Quốc, một cơ quan cố vấn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, trong một bài bình luận năm 2021 đã gọi chiến thuật vùng xám là một giải pháp thay thế tốt hơn cho một cuộc tấn công quân sự. Bắc Kinh sẽ “thăm dò các cách để khuất phục hòn đảo mà không cần chiến đấu”, ông viết.
Sr Col Zhao Xiaozhuo, Tổng Thư ký của Diễn đàn Xiangshan, Hội nghị An ninh quốc tế của Bắc Kinh đã bác bỏ những lo ngại về một cuộc tấn công của Trung Quốc vào Đài Loan như là “sự cường điệu của Hoa Kỳ”. Ông nói: “Tất nhiên chúng tôi sẽ không gây chiến với Đài Loan, điều đó sẽ khiến bạn nghĩ rằng chiến lược của chúng tôi đang hoạt động.”
Các nhà phân tích an ninh cho rằng việc chống lại các động thái từ từ, dần dần của Bắc Kinh là một thách thức khó khăn.
Lyle Morris, một thành viên cao cấp tại Trung tâm Phân tích Trung Quốc của Viện Chính sách Xã hội Châu Á và là cựu giám đốc quốc gia về Trung Quốc tại văn phòng Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, cho biết: “Thật khó để ngăn chặn các cuộc diễn tập và diễn tập cấp chiến thuật như vậy – khi bạn ở ngưỡng đó, bạn sẽ không làm những việc leo thang và có nguy cơ dẫn đến xung đột chung với Trung Quốc”.
Ukraine như một câu chuyện cảnh báo
Các chuyên gia quốc phòng khác cho biết một số công cụ sẵn có để chống lại chiến thuật vùng xám quân sự bao gồm đe dọa trừng phạt nếu một giới hạn đỏ cụ thể bị vượt qua. Chẳng hạn như việc Đài Bắc đe dọa sẽ tấn công trở lại nếu PLA xâm phạm không phận thuộc chủ quyền của họ.
Chính quyền Biden đã cam kết ngăn chặn các chiến thuật vùng xám cũng như hành động gây hấn quân sự toàn diện. Chiến lược An ninh Quốc gia đề cập đến mục tiêu “ngăn chặn các đối thủ cạnh tranh thay đổi hiện trạng theo cách gây tổn hại đến lợi ích sống còn của chúng ta trong khi nó lơ lửng dưới ngưỡng xung đột vũ trang”
Nhưng những cảnh báo lặp đi lặp lại từ các quan chức quân đội và tình báo Hoa Kỳ rằng Trung Quốc có thể tấn công Đài Loan trong vài năm nữa cho thấy những nỗ lực ngăn chặn của Washington ở eo biển Đài Loan chủ yếu tập trung vào việc ngăn cản Bắc Kinh tiến hành một cuộc tấn công toàn diện.
Kể từ cuộc chiến Ukraine, Hoa Kỳ đã tăng cường nỗ lực giúp Đài Bắc xây dựng kho vũ khí và đạn dược quan trọng để bảo vệ quyền tự chủ của mình trước mọi lực lượng đe dọa.
Các cuộc tuần tra của hải quân Hoa Kỳ xung quanh Đài Loan đã giảm. Washington cũng đang nhanh chóng đẩy mạnh hợp tác quân sự với các đồng minh ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, quan trọng nhất là Nhật Bản, Australia và Philippines. Trong các cuộc tập trận trong khu vực, các tướng lĩnh Mỹ nhấn mạnh rằng bất kỳ kẻ thù nào cũng sẽ phải cùng nhau đối mặt với họ và các đồng minh của họ, và rằng các cuộc tập trận của họ được thiết kế để răn đe.
Tại Đài Loan, nhiều người nghi ngờ những nỗ lực này sẽ có hiệu quả và chỉ ra cuộc chiến Ukraine như một câu chuyện cảnh báo.
Lee nói: “Trên thực tế chiến tranh nổ ra có nghĩa là sự răn đe của Hoa Kỳ đã thất bại. Vì vậy, chúng ta không nên chỉ học hỏi từ những gì đang xảy ra trên chiến trường mà còn từ những gì đã xảy ra trước khi Nga tấn công Ukraine, và tại sao sự răn đe lại thất bại”.
Các nhà phân tích Đài Loan tin rằng cán cân quân sự đang thay đổi giữa Mỹ và Trung Quốc trong khu vực làm suy yếu bất kỳ tác dụng răn đe nào của sức mạnh quân sự Mỹ. Họ chỉ ra thực tế rằng Washington đang giảm một số hoạt động triển khai dài hạn ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, chẳng hạn như một số máy bay chiến đấu ở Nhật Bản hoặc máy bay ném bom ở đảo Guam, để chuyển lực lượng luân phiên qua khu vực.
Đài Loan cũng nghi ngờ về mức độ hỗ trợ của Mỹ cho quốc phòng trong trường hợp chiến tranh. Theo truyền thống, Washington vẫn mơ hồ về việc liệu họ có can thiệp bằng những chiếc ủng trên mặt đất hay không. Mặc dù Tổng thống Joe Biden đã nhiều lần nói rằng Hoa Kỳ sẽ can thiệp trực tiếp, nhưng các cuộc thăm dò dư luận cho thấy công chúng Đài Loan không bị thuyết phục.
Sheu Jyh-shyang, một trong những tác giả của báo cáo INDSR tin rằng quyết định của Hoa Kỳ chỉ giúp đỡ Ukraine về vũ khí và việc một số nước châu Âu do dự về việc hỗ trợ Kiev không phải là điềm tốt cho Đài Loan.
Một quan chức quốc phòng cấp cao của Mỹ cho biết Lầu Năm Góc nhìn chung tin rằng khả năng ngăn chặn Trung Quốc của họ đang có hiệu quả, mặc dù “rất khó” để đưa ra đánh giá như vậy một cách chắc chắn.
Quan chức này nói: “Chúng tôi đang cho CHND Trung Hoa thấy rằng chúng tôi sẽ không cho phép họ làm lu mờ khả năng của chúng tôi. Chúng tôi sẽ tiếp tục đầu tư . . .tiếp tục đảm bảo rằng chúng tôi có thể duy trì một số lợi thế chiến đấu mà chúng tôi có. Chúng tôi có thể cho họ thấy rằng chúng tôi sẽ làm mọi việc với các đồng minh và đối tác, những điều cũng sẽ đặt ra một số tình huống khó xử trong hoạt động thực sự cho họ.”
Ông nói thêm rằng quân đội Hoa Kỳ có thể sử dụng vị thế của mình trong khu vực để “gây khó khăn hơn nhiều” cho PLA trong việc thực hiện các chiến dịch quân sự mà họ đã đề ra. “Cho họ thấy tất cả những điều đó có tác dụng tăng cường khả năng răn đe, vì vậy tôi nghĩ rằng chúng ta đang đạt được một số tiến bộ tốt rất tốt trong những lĩnh vực đó”, ông kết luận.
Nỗi sợ leo thang
Tuy nhiên, chính trị có thể làm phức tạp ngay cả những kế hoạch ngăn chặn tốt nhất. Một lo lắng lớn đối với chính phủ Đài Loan là bản chất ngày càng độc đoán của nền chính trị Bắc Kinh, khiến cho việc đánh giá các quyết định của nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình trở nên khó khăn hơn và liệu ông ấy có sẵn sàng mạo hiểm chiến tranh hơn hay không.
Quan chức quốc phòng Mỹ nói rằng Washington có thể phải áp dụng các biện pháp ngăn chặn ngay lập tức nếu Trung Quốc chuẩn bị tấn công Đài Loan trong thời gian tới. Ông nói: “Trường hợp rủi ro, nghĩa là thực sự gặp phải một tình huống khủng hoảng, nơi có khả năng thực sự sắp xảy ra xung đột. Khi đó, bạn có thể phải thực hiện các hành động cụ thể hơn để ngăn chặn.”
Mazarr nói: “Các nhà phân tích cảnh báo rằng đã có tiền lệ về việc các nhà lãnh đạo độc tài phớt lờ mọi tín hiệu răn đe khi bắt đầu một cuộc chiến tranh. Khi đó, một cường quốc gần như trở nên không thể khuất phục được. Trước chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản có quan niệm rằng họ sẽ gây chiến với một cường quốc công nghiệp, và họ đã tiến hành chiến tranh mặc dù Roosevelt đang gấp rút tăng cường quân tiếp viện vào Thái Bình Dương trong những tháng tới.”
Trong trường hợp của Trung Quốc, sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn với Mỹ và sự mất lòng tin lẫn nhau của họ đã khiến hai nước rơi vào vòng xoáy, nơi cả hai đều cố gắng ngăn chặn nhau nhưng lại vô tình có thể dẫn đến leo thang căng thẳng.
Cao Yanzhong, một nhà nghiên cứu tại Học viện Khoa học Quân sự của PLA, cho biết: “Khi nói đến lợi ích cốt lõi của Trung Quốc, sự ngăn cản của bất kỳ quốc gia nào chống lại Trung Quốc sẽ là vô ích”. Ông nói thêm: “Các biện pháp đối phó mà PLA đang thực hiện xung quanh Đài Loan là nhằm vào Mỹ và các lực lượng đòi Đài Loan độc lập đang âm mưu thay đổi nguyên trạng sau Thế chiến thứ hai, mà Đài Loan đã được trả lại cho Trung Quốc và là một phần của Trung Quốc.”
Các chuyên gia quốc phòng cho rằng để ngăn chặn nỗ lực răn đe của cả hai bên làm mất ổn định tình hình khu vực, Mỹ cần đưa ra sự đảm bảo cho đối phương bên cạnh các mối đe dọa. Mazarr lập luận điều đó đòi hỏi phải thuyết phục Trung Quốc rằng họ vẫn có cơ hội đạt được mục tiêu thống nhất với Đài Loan, điều mà hầu hết các chuyên gia coi là khó nhưng không phải là không thể.
Đối với Đài Loan, ngay cả việc tránh xung đột công khai như vậy cũng có nghĩa là tiếp tục sống chung với chiến thuật vùng xám của Trung Quốc. Trung tướng Steven Rudder, người đã nghỉ hưu vào năm ngoái với tư cách là người đứng đầu lực lượng Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, cho biết: “Giả sử bạn không nhượng bộ, thì thực sự không có cách nào để Trung Quốc giành chiến thắng trừ khi họ có bộ binh trên mặt đất. Trừ khi bạn có một cái gì đó giống như kịch bản Hồng Kông, Đài Loan vẫn như ngày nay. Nhưng áp lực từ PLA, điều đó sẽ không thay đổi”./.
Biên dịch: Nguyên Nguyễn
Tác giả: Kathrin Hille, Demetri Sevastopulo. Bài viết đăng trên Financial Times.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, không nhất thiết trùng với quan điểm của Nghiên cứu Chiến lược. Mọi phản hồi học thuật cũng như các vấn đề khác quý độc giả có thể trao đổi với BBT Nghiên cứu Chiến lược qua địa chỉ mail: [email protected]