Vấn đề cạnh tranh địa chính trị giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ là một vấn đề quyết định trong chính trị quốc tế. Đây là cuộc cạnh tranh giữa những nền kinh tế lớn nhất thế giới. Nó đặt hai hệ thống chính trị khác biệt đáng kể, “một dân chủ – một độc tài” (theo cách gọi của các tác giả) đối đầu với nhau. Và nó đang diễn ra trên phạm vi gần như toàn thế giới.
Theo hầu hết các nhà phân tích Mỹ, cuộc cạnh tranh này sẽ rất quyết liệt. Mặc dù tốc độ trỗi dậy của Trung Quốc đã chậm lại, nhưng quan điểm phổ biến ở Washington là Trung Quốc đã ngang hàng, hoặc ít nhất là gần ngang hàng về sức mạnh kinh tế. “Nếu chúng ta không hành động, [Trung Quốc] sẽ chiếm mất bữa trưa của chúng ta”, cựu Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden đã nói đùa ngay sau lễ nhậm chức năm 2021 của ông. Cùng năm đó, Elbridge Colby, người được Tổng thống Hoa Kỳ đương nhiệm Donald Trump đề cử làm thứ trưởng quốc phòng phụ trách chính sách, đã cảnh báo rằng “nền kinh tế của Trung Quốc gần bằng hoặc có lẽ lớn hơn nền kinh tế của Hoa Kỳ”.
Tuy nhiên, quan điểm cho rằng Trung Quốc sắp cân bằng cán cân sức mạnh kinh tế là không đúng. Số liệu thống kê của chính phủ Trung Quốc có thể chỉ ra rằng quốc gia này gần như ngang bằng với Hoa Kỳ. Nhưng nếu sức mạnh kinh tế của hai quốc gia được đo lường chính xác, Hoa Kỳ vẫn có những lợi thế đặc thù và bền vững. GDP của Hoa Kỳ lớn gấp khoảng hai lần Trung Quốc. Các công ty của Hoa Kỳ và các công ty đồng minh của Hoa Kỳ thống trị thương mại toàn cầu và đã sở hữu hoặc kiểm soát phần lớn thị phần của Trung Quốc, đặc biệt là về công nghệ tiên tiến. Do đó, Hoa Kỳ có đòn bẩy rất lớn đối với Bắc Kinh. Với đòn bẩy đó, Washington có thể thực hiện một cuộc cắt giảm kinh tế quy mô lớn cùng với các đồng minh của mình. Trên thực tế, là một chiến dịch “tách rời tương quan” nhanh chóng sẽ có thể gây ra trở ngại lớn cho Trung Quốc trong khi gây ra ít thiệt hại về ngắn hạn hơn và hầu như không gây thiệt hại về dài hạn cho Hoa Kỳ.
Thực tế này có ý nghĩa chiến lược lớn. Các nhà phân tích phản đối việc tách rời tương quan khỏi Trung Quốc thường nhấn mạnh rằng việc làm như vậy sẽ gây ra sự gián đoạn kinh tế lớn, dài hạn cho Hoa Kỳ. Họ đã sai. Nhưng điều đó không có nghĩa là việc tách rời tương quan ngay bây giờ sẽ đúng. Một tình huống tách rời tương quan trong thời bình sẽ khiến Washington mất đi một trong những công cụ mạnh nhất mà họ có để ngăn chặn sự tác động của Trung Quốc. Nó có thể thúc đẩy Trung Quốc phản ứng dữ dội, gây ra các cuộc xung đột không đáng có. Và họ có thể không đạt được mục đích của mình: Để một động thái cắt giảm kinh tế gây ra tác hại không cân xứng cho Trung Quốc, các đồng minh của Hoa Kỳ phải tham gia; tuy nhiên, nếu Washington cố gắng tiến hành một sự cắt giảm trong thời bình, họ có thể sẽ chùn bước. Các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ phải hiểu được vị thế thực sự của Hoa Kỳ trong cuộc cạnh tranh với Trung Quốc và giữ nguyên đòn bẩy của mình cho một cuộc khủng hoảng thay vì làm suy yếu một trong những vũ khí tốt nhất mà họ đang có.
SIÊU CƯỜNG KINH TẾ POTEMKIN
Nền kinh tế Trung Quốc đã tăng trưởng ấn tượng trong nhiều thập kỷ qua. Hiện tại, không còn nghi ngờ gì, đây là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới và đã trở nên mới mẻ hơn nhiều so với trước đây. Nhưng nền kinh tế này không hùng mạnh như người ta vẫn thường nói, một phần là do Bắc Kinh trực tiếp thao túng các số liệu kinh tế quan trọng, bao gồm cả GDP.
Theo số liệu thống kê chính thức, tổng sản phẩm quốc nội của Trung Quốc là gần 20 nghìn tỷ đô la, hoặc chỉ bằng hai phần ba GDP của Hoa Kỳ. Nhưng các số liệu không bị thay đổi một cách có chủ đích cho thấy nền kinh tế này nhỏ hơn nhiều. Hãy xem xét các hình ảnh vệ tinh về ánh sáng ban đêm ở quốc gia này, có thể nói là đây là cách tiếp cận tốt nhất để ước tính GDP của Trung Quốc. Các nghiên cứu xem xét hình ảnh như vậy một cách đáng tin cậy cho thấy cường độ ánh sáng ít hơn so với dự tính nếu số liệu thống kê chính thức của Trung Quốc là chính xác. Thật vậy, tổng hợp các nghiên cứu nghiêm ngặt nhất trong số các nghiên cứu này chỉ ra rằng GDP của Trung Quốc hiện đã bị phóng đại khoảng một phần ba, điều đó có nghĩa là GDP của quốc gia này chỉ bằng khoảng một nửa so với Hoa Kỳ. Để so sánh, Liên Xô đã đạt đỉnh 57 phần trăm GDP của Hoa Kỳ vào năm 1975.
Các chuyên gia trong và ngoài Trung Quốc từ lâu đã hiểu rằng số liệu thống kê GDP chính thức của Trung Quốc không đáng tin cậy. Lý Khắc Cường, người từng giữ chức thủ tướng Trung Quốc từ năm 2013 đến năm 2023, đã nói vào năm 2007 rằng ông không tin vào số liệu GDP “nhân tạo” của Trung Quốc, vốn “chỉ mang tính tham khảo”. Logan Wright và Daniel Rosen, các chuyên gia về Trung Quốc tại Rhodium Group, thậm chí còn lên án quốc gia này hơn. Họ đã viết vào năm 2019: “Trong gần hai thập kỷ kinh nghiệm chuyên môn trong lĩnh vực này”, “chúng tôi chưa bao giờ gặp một quan chức Trung Quốc nào tuyên bố riêng tư rằng họ thực sự tin vào số liệu GDP”.
Bắc Kinh trực tiếp thao túng các số liệu kinh tế quan trọng, bao gồm GDP
Phần lớn lạm phát của GDP Trung Quốc là do bản chất đơn lẻ của mô hình phát triển của nước này. Quốc gia này phụ thuộc lớn vào đầu tư lớn để thúc đẩy tăng trưởng; theo nhà kinh tế Michael Pettis, đầu tư như vậy đã chiếm trung bình hơn 40 phần trăm GDP của Trung Quốc trong 30 năm qua. Nhưng phần lớn chi tiêu này không có giá trị sản xuất. Ví dụ, Trung Quốc hiện có tỷ lệ nhà ở bỏ trống cao nhất thế giới, ở mức 20 phần trăm. Một tỷ lệ lớn các dự án cơ sở hạ tầng của Trung Quốc sẽ là tốn kém hơn để xây dựng so với lợi nhuận kinh tế mà chúng tạo ra. Ví dụ, theo phóng viên Brian Spegele của tờ Wall Street Journal, mạng lưới đường sắt cao tốc dài 30.000 dặm của Bắc Kinh (con số này có thể bao quanh một vòng trái đất) đã tạo ra hơn 1 nghìn tỷ đô la nợ và có nhiều tuyến đường hầu như không được sử dụng. Tuy nhiên, những khoản đầu tư không hiệu quả như vậy vẫn tiếp tục là một phần GDP của Trung Quốc. Ngược lại, ở các nền kinh tế tiên tiến, nếu một khoản đầu tư không thể trả hết, thì khoản đầu tư đó thường bị xóa sổ như là một khoản giảm thu nhập, do đó sẽ làm giảm GDP.
Ngay cả khi ước tính GDP của Bắc Kinh là đáng tin cậy, chúng vẫn sẽ phóng đại sức mạnh kinh tế của Trung Quốc. Nhiều nhà phân tích ấn tượng trước sản lượng kinh tế khổng lồ của Trung Quốc trong lĩnh vực sản xuất. Nhưng hãy nhìn sâu hơn là nhìn trên bề mặt, phần lớn sản lượng này đơn giản là không thực sự nằm trong tầm kiểm soát của nước này. Sản xuất phức tạp hơn nhiều và toàn cầu hóa hiện nay phức tạp hơn nhiều so với các thời đại trước, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp phức tạp như chất bán dẫn và máy bay phản lực. Do đó, các tập đoàn đa quốc gia lớn đứng đầu chuỗi sản xuất toàn cầu có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế toàn cầu. Và các công ty này chủ yếu có trụ sở tại Hoa Kỳ và các nước đồng minh, không phải ở Trung Quốc.
Thực tế này được minh họa bằng cách xem xét lợi nhuận do Forbes 2000 năm 2022 tạo ra: 2.000 công ty lớn nhất thế giới. Lợi nhuận là thước đo sức mạnh kinh tế được ưa chuộng vì nếu một công ty trong một lĩnh vực tạo ra chúng, điều đó có nghĩa là có những rào cản ngăn cản các đối thủ cạnh tranh tham gia thị trường và cắt giảm biên lợi nhuận của công ty đó. Do đó, họ nắm bắt tốt nhất các điểm nghẽn của nền kinh tế thế giới. Và các công ty Hoa Kỳ tạo ra 38 phần trăm lợi nhuận toàn cầu, trong khi các công ty có trụ sở chính tại các nước đồng minh tạo ra 35 phần trăm. Các công ty Trung Quốc, bao gồm cả các công ty ở Hồng Kông, chỉ tạo ra 16 phần trăm.
Khi xem xét kỹ hơn 27 ngành công nghiệp trong số liệu của Forbes, chúng ta càng thấy rõ vị thế dẫn đầu của Hoa Kỳ so với Trung Quốc. Trung Quốc dẫn đầu ba trong số các ngành công nghiệp này. Trong khi đó, Hoa Kỳ dẫn đầu trong 20 ngành, hầu như luôn cách biệt hai chữ số. Ba trong số bảy ngành mà Hoa Kỳ không phải là nước dẫn đầu thì đồng minh của Hoa Kỳ lại là những nước dẫn đầu. Hoa Kỳ cùng hệ thống đồng minh và đối tác của mình tạo nên năm quốc gia hàng đầu về tỷ lệ lợi nhuận trong năm ngành: hàng không vũ trụ và quốc phòng, dược phẩm và công nghệ sinh học, phương tiện truyền thông, bán dẫn và dịch vụ.
Lợi thế của Hoa Kỳ đặc biệt rõ rệt trong các lĩnh vực công nghệ cao như hàng không vũ trụ và quốc phòng, dược phẩm và công nghệ sinh học, bán dẫn, trong đó các công ty Hoa Kỳ tạo ra 55 phần trăm lợi nhuận và các công ty của các nước đồng minh Hoa Kỳ tạo ra 29 phần trăm. Ngược lại, các công ty công nghệ cao của Trung Quốc chỉ tạo ra sáu phần trăm lợi nhuận trên toàn thế giới, chỉ lớn hơn một chút so với tỷ lệ do các công ty Hàn Quốc tạo ra. Lợi nhuận từ các công ty Trung Quốc chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực trong nước chứ mặc nhiên không có ý nghĩa địa chính trị, đáng chú ý là ngân hàng, xây dựng và bảo hiểm.
Tất nhiên các công ty Hoa Kỳ và các quốc gia đồng minh sản xuất nhiều sản phẩm của họ tại Trung Quốc. Nhưng đối với Bắc Kinh, điều này chính là vấn đề: phần lớn hoạt động sản xuất công nghệ tiên tiến của Trung Quốc bao gồm sản lượng do các công ty nước ngoài tạo ra và thiết kế, bao gồm Apple, Bosch, Panasonic, Samsung và Volkswagen. Khi các công ty này không thành lập nhà máy riêng tại Trung Quốc, họ thường thuê các công ty nước ngoài khác, chẳng hạn như Foxconn (doanh nghiệp Đài Loan) để làm việc đó thay họ. Đồng thời, bất kể ai sở hữu hoạt động sản xuất công nghệ tiên tiến tại Trung Quốc, sản lượng của quốc gia này thường phụ thuộc rất nhiều vào công nghệ, chuyên môn và linh kiện từ Hoa Kỳ và các đồng minh.
Để thấy được sự phụ thuộc này trong hành động, hãy xem xét quá trình sản xuất iPhone 14, hiện đã có dữ liệu sản xuất đầy đủ. iPhone được lắp ráp tại Trung Quốc, do đó, theo các phép đo chính thức, nó được coi là hàng xuất khẩu của Trung Quốc và do đó làm tăng thêm nhiều tỷ đô la mỗi năm vào thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ (ước tính là 10 tỷ đô la vào năm 2018). Nhưng việc coi iPhone là hàng xuất khẩu của Trung Quốc là vô nghĩa vì các công ty Trung Quốc chỉ chiếm một phần tương đối không đáng kể trong hoạt động sản xuất của họ. Chiếc điện thoại này được thiết kế tại California. Nó được lắp ráp tại các nhà máy do một doanh nghiệp Đài Loan sở hữu, các công ty Trung Quốc chỉ đóng góp bốn phần trăm giá trị linh kiện của sản phẩm. Đứng trước sự đóng góp của Trung Quốc là Hàn Quốc (25 phần trăm), Nhật Bản (11 phần trăm) và Đài Loan (7 phần trăm). Đứng đầu là Hoa Kỳ, đóng góp 32 phần trăm giá trị linh kiện của iPhone.
Về mặt lợi ích kinh tế, việc sản xuất của Trung Quốc do các công ty nước ngoài sở hữu hay kiểm soát không quan trọng. Miễn là nó diễn ra ở Trung Quốc, nó sẽ góp phần vào sự tăng trưởng của nền kinh tế Trung Quốc và phúc lợi của người dân. Nhưng về mặt địa chính trị, sự khác biệt này là rất quan trọng. Các công ty nước ngoài không có nghĩa vụ phải hoạt động tại Trung Quốc nếu điều đó không còn vì lợi ích của họ hoặc nếu chính phủ ở đất nước họ bắt buộc hoặc khuyến khích họ rời đi. Điều tương tự cũng áp dụng đối với các nhà cung cấp linh kiện nước ngoài. Không ai ép buộc họ phải tiếp tục bán hàng tại Trung Quốc nếu họ thấy điều đó là bất lợi cho họ hoặc nếu chính phủ của họ ngăn cản họ làm vậy.
BÊN NÀO THIỆT HƠN?
Cho đến nay, các nỗ lực cắt đứt quan hệ với Trung Quốc của Washington về bản chất đều có mục tiêu, chủ yếu tập trung vào các hạn chế công nghệ đối với đất nước này. Nhưng để xác định điều gì sẽ xảy ra nếu Hoa Kỳ và các đồng minh áp đặt lệnh cắt đứt kinh tế trên quy mô lớn, chúng tôi đã mô hình hóa cẩn thận các chi phí riêng biệt, thiết kế 12 kịch bản giả định bằng cách thay đổi ba thông số: liệu Đài Loan vẫn là một phần của nền kinh tế toàn cầu hay đã bị Trung Quốc kiểm soát bằng quân sự, phong tỏa; mức độ cắt đứt quan hệ thương mại của Trung Quốc với Hoa Kỳ và các đồng minh; và mức độ thiệt hại mà những gián đoạn thương mại này gây ra cho chuỗi cung ứng toàn cầu.
Chúng tôi đã thử nghiệm các kịch bản này để ước tính thiệt hại do gián đoạn thương mại trong ngắn hạn, phạm vi là vài tuần và vài tháng sau khi chúng bắt đầu khỏi động mô hình. Trong tất cả 12 kịch bản, chúng tôi thấy rằng Trung Quốc sẽ phải chịu tổn thất kinh tế lớn hơn nhiều so với Hoa Kỳ. Ở mức thấp, những gián đoạn kinh tế trong ngắn hạn đối với Trung Quốc sẽ lớn hơn khoảng năm lần so với những gián đoạn đối với Hoa Kỳ. Ở mức cao, chúng sẽ lớn hơn khoảng 11 lần.
Điều này có nghĩa là chi phí trả trước giống như Đại suy thoái, khiến mọi thứ đảo lộn đối với Trung Quốc, với sự gián đoạn kinh tế ngắn hạn sẽ gây ảnh hưởng cho từ 15 đến 51 phần trăm GDP của quốc gia này (tùy thuộc vào kịch bản). Ví dụ, trong mô hình cơ sở của chúng tôi, trong đó toàn bộ hoạt động thương mại hàng hải của Trung Quốc bị hạn chế thông qua lệnh phong tỏa hải quân từ xa, 39,9 phần trăm GDP của Trung Quốc sẽ bị ảnh hưởng, nhưng chỉ có 3,6 phần trăm GDP của Hoa Kỳ bị ảnh hưởng. Nói cách khác, Bắc Kinh có thể trừng phạt mọi ngành công nghiệp và cá nhân của Hoa Kỳ, và gây thiệt hại đối với nền kinh tế Hoa Kỳ, nhiều nhất cũng sẽ chỉ là một phần rất nhỏ so với thiệt hại mà Washington và các đồng minh có thể gây ra cho Trung Quốc.
Để xác định hậu quả lâu dài của việc giảm trao đổi kinh tế, chúng tôi cũng đã lập mô hình về cách thức thương mại toàn cầu cuối cùng sẽ ổn định sau cú sốc ban đầu của việc tách rời tương quan và cách thức cân bằng mới này sẽ định hình quỹ đạo tăng trưởng của từng quốc gia. Khi làm như vậy, chúng tôi thấy rằng vị thế của Washington sẽ trở nên thuận lợi hơn so với các quốc gia khác. Hoa Kỳ và hầu hết các đồng minh của nước này sẽ quay trở lại mức tăng trưởng cơ bản của họ. Tuy nhiên, quỹ đạo kinh tế của Trung Quốc sẽ suy giảm vĩnh viễn.
Lý do chính cho sự mất cân bằng dai dẳng này rất đơn giản. Nền kinh tế Trung Quốc phụ thuộc rất nhiều vào các công ty nước ngoài sản xuất hàng hóa trong biên giới của mình hoặc ký hợp đồng phụ với các công ty Trung Quốc sản xuất hàng hóa. Việc cắt giảm sẽ làm mất đi hoạt động sản xuất đó. Trong khi đó, các công ty Hoa Kỳ và các công ty đồng minh của Hoa Kỳ không phụ thuộc vào nhiều vấn đề như vậy. Hoạt động thương mại và sản xuất của Hoa Kỳ cũng như các đồng minh sẽ phải đối mặt với các vấn đề hậu cần ngắn hạn sau khi tách rời tương quan xảy ra, nhưng chúng có thể được chuyển hướng khỏi Trung Quốc khi các công ty tìm thấy các nhà máy thay thế để sản xuất hàng hóa của họ và tìm các nguồn hàng khác cho các bộ phận cơ bản. (Mặc dù một số sản lượng bị mất của Trung Quốc có thể sẽ quay trở lại một ngày nào đó, nhưng phần lớn sẽ vẫn ở nơi khác khi các công ty nước ngoài gặp khó khăn trong việc tạo ra các tuyến cung ứng mới.)
Trên thực tế, các công ty Mỹ và các công ty đồng minh của Mỹ hoạt động tại Trung Quốc đã theo đuổi sự đa dạng hóa. Nếu một lệnh cắt giảm kinh tế thời chiến quy mô lớn được áp dụng đối với Trung Quốc, nhiều công ty sẽ chỉ đơn giản là đẩy nhanh quá trình này. Và vì tất cả các công ty phương Tây sẽ đồng thời phải đối mặt với áp lực đa dạng hóa nhằm thoát khỏi sự phụ thuộc vào Trung Quốc, nên những mối lo ngại của họ cũng xoay quanh việc bị đặt vào thế bất lợi khi những quyết định liên quan đến di chuyển sản xuất trước các đối thủ cạnh tranh của họ bị ngăn cản.
THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM VÀ CÁCH THỨC
Chính quyền của cựu Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden đã tìm cách theo đuổi cách tiếp cận “sân nhỏ, hàng rào cao” đối với mối quan hệ kinh tế Hoa Kỳ – Trung Quốc: cắt giảm đáng kể trao đổi chỉ trong các lĩnh vực quan trọng nhất đối với an ninh quốc gia, chẳng hạn như chất bán dẫn. Chiến lược này được thúc đẩy bởi lời của Cố vấn An ninh Quốc gia chính quyền Biden, Jake Sullivan, “duy trì vị thế dẫn đầu càng lớn càng tốt” trong các lĩnh vực công nghệ cao quan trọng nhất trong khi vẫn được hưởng lợi từ quan hệ thương mại với Trung Quốc.
Tuy nhiên, cách tiếp cận này không đủ quyết liệt đối với nhiều người theo chủ nghĩa diều hâu Trung Quốc. Đối với họ, việc sử dụng dao mổ để “giảm rủi ro” cho chuỗi cung ứng sẽ không mang lại một tấm khiên bảo vệ an toàn cho người Mỹ khỏi những nguy cơ mà Trung Quốc sẽ gây ra; họ tin rằng nền kinh tế của Hoa Kỳ và Trung Quốc nên được tách biệt hoàn toàn. Họ tuyên bố rằng trao đổi kinh tế đáng kể với Trung Quốc gây ra những rủi ro không thể chấp nhận được, cho dù là bằng cách hợp tác với Bắc Kinh, gây tổn hại đến các cộng đồng công nghiệp Hoa Kỳ hay gây ra căng thẳng chung giữa hệ thống thị trường tự do của Hoa Kỳ và hệ thống do nhà nước do chính phủ Trung Quốc kiểm soát. Những người ủng hộ này hiện có một lượng ủng hộ lớn tại Nhà Trắng. Trong chiến dịch tranh cử, Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đã đề xuất áp thuế 60 phần trăm đối với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc. Ông đã đề xuất dựng lên những rào cản thậm chí còn quyết liệt hơn, hoặc thậm chí là “cấm cửa” hoàn toàn nếu Bắc Kinh tấn công Đài Loan.
Việc thực hiện một lệnh cắt giảm kinh tế quy mô để đáp trả “chủ nghĩa xét lại lãnh thổ” của Trung Quốc sẽ là điều hợp lý. Nhưng sử dụng cách tiếp cận này trong thời bình lại hoàn toàn khác và không khôn ngoan về mặt chiến lược. Trung Quốc chỉ có thể bị cắt giảm một lần và việc làm như vậy khi không có xung đột sẽ lãng phí đòn bẩy quan trọng để hạn chế sự hung hăng về mặt quân sự của Bắc Kinh. Không giống như Nga, Trung Quốc đã hội nhập sâu rộng vào thị trường toàn cầu. Họ được hưởng lợi ích kinh tế to lớn từ toàn cầu hóa mà sẽ rất tốn kém nếu từ bỏ. Với mối quan hệ kinh tế đáng kể vẫn còn nguyên vẹn, Washington có thể ra hiệu với Bắc Kinh rằng họ sẽ được hưởng lợi nếu kiềm chế không thách thức nguyên trạng nhưng Trung Quốc sẽ phải chịu sự trả đũa kinh tế lớn nếu họ đi theo con đường “hành động quân sự”. Do đó, Hoa Kỳ nên giữ cho nguồn tiền kinh tế của mình an toàn cho đến thời điểm khủng hoảng thực sự.
Việc tách rời tương quan trước cũng có thể gây ra chính xác những gì các nhà hoạch định chính sách xung đột Hoa Kỳ – Trung Quốc muốn tránh. Nếu Hoa Kỳ khởi xướng các đợt cắt giảm thời bình quy mô lớn và Trung Quốc tin rằng họ không thể sao chép hiệu quả nhiều hàng hóa và công nghệ mà họ có thể đánh mất, họ có thể cảm thấy rằng cơ hội sử dụng vũ lực để kiểm soát Đài Loan của họ đang khép lại. Điều đó có thể thúc đẩy họ quyết định sử dụng vũ lực một cách nhanh chóng, đặc biệt khi nước này cảm thấy rủi ro nếu quyền tiếp cận kinh tế toàn cầu của quốc gia mình được thiết lập để rồi bị cắt giảm.
Cuối cùng, một đợt tách rời tương quan trong thời bình quy mô lớn có thể thất bại. Để gây ra tác hại lớn, không cân xứng cho Trung Quốc, Washington cần các đồng minh của mình tham gia vào các đợt cắt giảm; nếu Hoa Kỳ tự ý tách rời, sự gián đoạn ngắn hạn đối với GDP của Trung Quốc sẽ chỉ từ năm đến bảy phần trăm, chỉ cao hơn một chút so với sự gián đoạn từ bốn đến năm phần trăm đối với GDP của Hoa Kỳ trong những trường hợp đó. Và trong trường hợp không có khủng hoảng, các đối tác của Washington có thể sẽ miễn cưỡng tham gia. Mặc dù Hoa Kỳ có thể chịu tương đối ít thiệt hại khi cắt giảm tương quan đối với Trung Quốc, nhưng nhiều đối tác của họ sẽ phải trả giá đắt. Ví dụ, Đức sẽ có thể gặp phải mức độ gián đoạn kinh tế gấp khoảng hai lần so với Hoa Kỳ, Nhật Bản sẽ gặp phải thiệt hại gấp khoảng ba lần, Úc gấp khoảng năm lần và Hàn Quốc gấp khoảng bảy lần.
Tất nhiên, Hoa Kỳ có thể cố gắng buộc các đồng minh của mình hợp tác bằng cách triển khai các lệnh trừng phạt thứ cấp hoặc sử dụng các tài sản hải quân của mình để hạn chế thương mại của Trung Quốc. Nhưng ngay cả khi thành công, những nỗ lực như vậy có thể sẽ là một nỗ lực nhỏ giọt và ngu ngốc, khiến các đồng minh của Hoa Kỳ quay lưng lại với Washington trong dài hạn. Các liên minh của Hoa Kỳ là một nguồn sức mạnh đáng kinh ngạc và các hành động của Hoa Kỳ không nên làm suy yếu sức mạnh đáng quý này.
Do đó, Washington nên tuân thủ cách tiếp cận giảm rủi ro và triển khai lệnh cắt giảm kinh tế quy mô lớn đối với Trung Quốc chỉ khi Bắc Kinh vi phạm nghiêm trọng, gây tốn kém về mặt kinh tế so với nguyên trạng. Nếu Trung Quốc phong tỏa thực hiện các biện pháp quân sự đối với Đài Loan, sự gián đoạn kinh tế ngắn hạn đối với Hoa Kỳ và các đồng minh của nước này sẽ đủ lớn để sánh ngang với những tổn thất do sự tách rời tương quan quy mô lớn gây ra. Thiệt hại bổ sung từ việc cắt giảm hợp tác kinh tế đối với Trung Quốc khi đó có thể sẽ không đáng kể và có giá trị về mặt chiến lược đối với các đồng minh của Hoa Kỳ, đặc biệt là nếu Washington chủ động đứng về phía họ.
ĐẢM BẢO AN TOÀN BẰNG VIỆC DỰ LIỆU?
Tuy nhiên, để sẵn sàng ứng phó với những kịch bản như vậy, Hoa Kỳ và các đồng minh cần có một chiến lược kinh tế chung. Và hiện tại, sự phối hợp của họ về chính sách kinh tế về cơ bản là “tùy cơ ứng biến”. Washington và các chính phủ đồng minh đã bắt đầu lên kế hoạch chi tiết về cách trừng phạt Nga sau khi họ biết được ý định thực hiện chiến dịch quân sự ở Ukraine của nước này vào tháng 10 năm 2021. Nhưng với Trung Quốc, họ có thể không được thông báo nhiều và bất kỳ hành động gây hấn nào mà họ phải đối mặt cũng ít lộ liễu hơn. Cũng giống như NATO thực hiện các hành động chuẩn bị trong dài hạn ví như việc huấn luyện, lập kế hoạch, phân bổ nguồn lực, v.v… để đảm bảo hợp tác quân sự hiệu quả, Washington và các đồng minh hiện nên phối hợp về cách tiến hành “chiến tranh kinh tế”.
Có nhiều cách để tạo điều kiện cho sự hợp tác như vậy. Cách tốt nhất là thành lập một liên minh kinh tế chính thức thông qua một tổ chức liên chính phủ mới. Một chức năng quan trọng của liên minh này là giảm bớt sự bất định về việc liệu các thành viên của liên minh có tiến hành tách rời tương quan chung để ứng phó với việc xét lại lãnh thổ của Trung Quốc hay không. Vì chi phí cho một động thái cắt giảm quy mô lớn rất khác giữa các quốc gia, việc tự hỏi liệu rằng những quốc gia dễ bị tổn thương nhất có tham gia hay không là điều nên cân nhắc. Việc lập kế hoạch chu đáo trong liên minh sẽ làm giảm sự bất ổn này, một phần bằng cách tìm ra cách hỗ trợ các quốc gia có thể chịu thiệt hại nhiều nhất. Ví dụ, liên minh có thể lập kế hoạch cho các quốc gia có kho dự trữ lớn các nguồn tài nguyên quan trọng để phân phối cho các thành viên dễ bị tổn thương hơn. Vì mục đích đó, Washington và các đồng minh của mình nên cố gắng tìm hiểu xem quốc gia nào có thể giải ngân tốt nhất các kho dự trữ hoặc tăng sản lượng hàng hóa hiện do Trung Quốc cung cấp. Họ nên lập kế hoạch về cách thức xảy ra sự gia tăng như vậy và cách phân phối sản lượng đó.
Liên minh cũng có thể xem xét các hình thức hợp tác thậm chí còn trên nhiều lĩnh vực lớn hơn. Ví dụ, liên minh có thể lập kế hoạch về cách phối hợp các chính sách tài khóa và tiền tệ trong thời kỳ khủng hoảng hoặc cách tịch thu và phân phối tài sản của các quốc gia (bao gồm cả Trung Quốc) vi phạm nguyên trạng lãnh thổ. Họ có thể thành lập một quỹ dự trữ tài chính tập thể mà các thành viên sẽ sử dụng để giảm thiểu thiệt hại nghiêm trọng do việc cắt giảm hợp tác kinh tế gây ra. Quỹ dự trữ thậm chí có thể giúp giải quyết những câu hỏi khó về việc liệu các đồng minh của Washington có chi đủ tiền cho quốc phòng hay không. Ví dụ, các quan chức Hoa Kỳ có thể đề nghị coi những khoản đóng góp như vậy vào quỹ dự trữ như một giải pháp thay thế cho việc tăng chi tiêu quốc phòng.
Việc thực hiện tách rời tương quan trước có thể gây ra một cuộc chiến mà các nhà hoạch định chính sách muốn tránh.
Tuy nhiên, khoản đầu tư của Washington vào một liên minh kinh tế mới không thể gây tổn hại đến các liên minh an ninh hiện có, đặc biệt là với châu Âu. Ngày càng nhiều chính trị gia cho rằng việc bảo vệ châu Á khỏi Trung Quốc là loại trừ lẫn nhau đối với việc bảo vệ châu Âu khỏi Nga. Ví dụ, Phó Tổng thống Hoa Kỳ JD Vance đã chỉ trích sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ trên lục địa này bằng cách lập luận rằng các nguồn lực đầu tư vào đó sẽ được sử dụng tốt hơn để hạn chế khả năng quân sự của Trung Quốc. Nhưng luận điệu này lại cho rằng việc hạn chế Trung Quốc là mục tiêu chỉ đạt được thông qua các biện pháp quân sự. Việc định hình hành vi và năng lực an ninh của Trung Quốc cũng đòi hỏi các công cụ kinh tế, điều đó có nghĩa là Hoa Kỳ cần châu Âu. Châu lục này là nơi có một phần lớn các công ty hàng đầu thế giới và bất kỳ sự cắt giảm hợp tác kinh tế nào đối với Trung Quốc đều sẽ không hiệu quả trừ khi các nước châu Âu tham gia.
Nỗ lực của chính quyền Biden nhằm từ chối cung cấp chất bán dẫn tiên tiến cho Trung Quốc là một ví dụ điển hình. Để chính sách hạn chế này có hiệu quả, Washington phải có được sự hợp tác của công ty ASML của Hà Lan, công ty duy nhất sản xuất máy in thạch bản cực tím cần thiết để sản xuất chip bán dẫn tiên tiến. Cuối cùng, ASML đã đồng ý với yêu cầu của Hoa Kỳ rằng họ phải ngừng xuất khẩu những máy này sang Trung Quốc. Nhưng trong trường hợp không có vai trò an ninh mạnh mẽ của Hoa Kỳ tại châu Âu, thì chiến dịch vận động hành lang mạnh mẽ của Washington khó có thể thành công.
Do đó, Washington sẽ cần phải khôn ngoan khi duy trì khoản đầu tư của mình vào NATO. Họ thậm chí có thể coi cam kết đó là cơ sở cho một “thỏa thuận ngầm” mới về thỏa thuận xuyên Đại Tây Dương. Trong đó, châu Âu sẽ tiếp tục nhận được sự hỗ trợ quân sự cần thiết từ Hoa Kỳ liên quan đến Nga, đặc biệt là đối với các năng lực mà lục địa này sẽ quá tốn kém hoặc khó khăn để tự mình phát triển chẳng hạn như răn đe hạt nhân và vũ khí mạng. Đổi lại, Washington sẽ nhận được sự giúp đỡ của châu Âu liên quan đến các chính sách kinh tế hạn chế đến từ những hành động của Bắc Kinh trong tương lai.
CHUẨN BỊ SẴN SÀNG CHO TÌNH HÌNH MỚI
Mặc dù các đồng minh của Washington sẽ dễ bị tổn thương hơn nhiều nếu Trung Quốc quyết định cắt đứt quan hệ kinh tế với những nước này, nhưng Hoa Kỳ khó có thể thoát khỏi những điểm yếu cố hữu. Một số ngành công nghiệp của Hoa Kỳ sẽ bị tổn hại rất lớn do sự tách rời tương quan kinh tế quy mô lớn, đáng chú ý nhất là ngành nông nghiệp, nơi xuất khẩu một lượng lớn hàng hóa sang Trung Quốc. Sẽ là khôn ngoan nếu Washington lập kế hoạch đối phó không chỉ về cách bảo vệ nền kinh tế của các đối tác mà còn về cách bảo vệ nền kinh tế của chính mình. Kế hoạch này sẽ rất quan trọng đối với việc cung cấp hỗ trợ của chính phủ cho các ngành công nghiệp dễ bị tổn thương trong trường hợp cắt đứt quan hệ kinh tế, và nó sẽ trấn an các nhà lãnh đạo trong các ngành công nghiệp đó rằng họ có thể tồn tại sau động thái tách rời tương quan.
Một cách quan trọng để bảo vệ các ngành công nghiệp của Hoa Kỳ là tích trữ nhiều tài nguyên thiên nhiên hơn. Đây là lĩnh vực chính mà Trung Quốc có đòn bẩy kinh tế lớn đối với Hoa Kỳ. Nhưng điều đó chỉ xảy ra vì Washington đã chọn để mình bị tổn thương, một vấn đề mà họ có thể và nên khắc phục. Bộ Quốc phòng có một nguồn dự trữ các nguồn lực quan trọng để sử dụng trong các trường hợp khẩn cấp quốc gia: Kho dự trữ quốc phòng. Nhưng mục đích của kho dự trữ này chỉ nhằm bù đắp cho sự gián đoạn nguồn cung trong các lĩnh vực quốc phòng và dân sự quan trọng, chứ không phải trong toàn bộ nền kinh tế. Để bảo vệ đất nước trên một bình diện lớn hơn, Hoa Kỳ cần tăng dự trữ tài nguyên thiên nhiên lên mức như họ đã làm thời Chiến tranh Lạnh, tức là lớn hơn khoảng mười lần so với hiện tại. Một bước đi như vậy sẽ mang lại lợi ích chiến lược to lớn và chi phí tương đối thấp, có lẽ không cao hơn quá nhiều so với giá của một tàu sân bay mới. Đồng thời, Washington cần khuyến khích tốt hơn việc phát triển các sản phẩm thay thế cho các nguồn tài nguyên thiên nhiên hiện có nguồn gốc từ Trung Quốc, chẳng hạn như kim loại đất hiếm gali và germani. Và nếu có thể, Hoa Kỳ nên tăng cường khai thác và chế biến trong nước các nguồn tài nguyên thiên nhiên quan trọng.
Washington cũng nên khôn ngoan xác định thêm các lĩnh vực mà đất nước dễ bị cắt nguồn cung từ Trung Quốc và thúc đẩy các bước khắc phục phù hợp, như việc họ đã làm đối với thiết bị bảo vệ cá nhân trong đại dịch COVID-19. Chính phủ Hoa Kỳ sẽ cần thuê thêm nhiều quan chức để xem xét các lỗ hổng kinh tế thay đổi của đất nước họ. Trên thực tế, Washington nên tạo ra một cấu trúc thể chế mới để thúc đẩy lập kế hoạch và phối hợp dài hạn hơn liên quan đến các vấn đề an ninh kinh tế. Ví dụ, Họ có thể tạo ra các nhóm an ninh kinh tế chuyên trách mới trong Bộ Tài chính và Bộ Thương mại và Hội đồng An ninh Quốc gia, mỗi nhóm đều được giám sát bởi một người được bổ nhiệm chính trị chẳng hạn như Ông Justin Muzinich, cựu thứ trưởng Bộ Tài chính Hoa Kỳ đã đề xuất.
Các quan chức và thể chế mới này cuối cùng cũng nhằm mục đích cho thấy rằng Trung Quốc còn lâu mới cân bằng được cán cân sức mạnh kinh tế với Hoa Kỳ và rằng Washington có đòn bẩy kinh tế rất lớn đối với Bắc Kinh. Nếu Hoa Kỳ sử dụng đòn bẩy này trong thời bình, họ có thể khiến Trung Quốc hành động theo tham vọng lãnh thổ của mình trong khi khiến Washington mất đi những mối quan hệ đối tác quan trọng. Nhưng nếu Hoa Kỳ giữ đòn bẩy này cho việc dự trữ, họ có thể giúp kiểm soát những hành động xét lại của Trung Quốc. Khi làm như vậy, họ có thể thu hẹp phạm vi tính toán sai lầm thảm khốc giữa Bắc Kinh và Washington.
Biên dịch: Duy Hưng
Các tác giả:
STEPHEN G. BROOKS là Giáo sư tại Dartmouth College và là Giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Stockholm
BEN A. VAGLE là nhà phân tích chính sách tại Bộ Tài chính Hoa Kỳ.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của Nghiên cứu Chiến lược. Mọi trao đổi học thuật và các vấn đề khác, quý độc giả có thể liên hệ với ban biên tập qua địa chỉ mail: [email protected]