Nghiên Cứu Chiến Lược
  • Trang Chủ
  • Lĩnh vực
    • Kinh tế
    • Xã hội
    • Quốc phòng – an ninh
    • Chính trị
  • Khu vực
    • Châu Á
    • Châu Âu
    • Châu Mỹ
    • Châu Phi
    • Châu Đại Dương
  • Phân tích
    • Ý kiến độc giả
    • Chuyên gia
  • Thư viện
    • Sách
    • Tạp chí
    • Media
  • Podcasts
  • Giới thiệu
    • Ban Biên tập
    • Dịch giả
    • Đăng ký cộng tác
    • Thông báo
No Result
View All Result
  • Trang Chủ
  • Lĩnh vực
    • Kinh tế
    • Xã hội
    • Quốc phòng – an ninh
    • Chính trị
  • Khu vực
    • Châu Á
    • Châu Âu
    • Châu Mỹ
    • Châu Phi
    • Châu Đại Dương
  • Phân tích
    • Ý kiến độc giả
    • Chuyên gia
  • Thư viện
    • Sách
    • Tạp chí
    • Media
  • Podcasts
  • Giới thiệu
    • Ban Biên tập
    • Dịch giả
    • Đăng ký cộng tác
    • Thông báo
No Result
View All Result
Nghiên Cứu Chiến Lược
No Result
View All Result
Home Bầu cử tổng thống mỹ

Quan hệ Việt Nam – Triều Tiên trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược khu vực

07/10/2025
in Bầu cử tổng thống mỹ, Chính trị, Phân tích
A A
0
Quan hệ Việt Nam – Triều Tiên trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược khu vực
0
SHARES
324
VIEWS
Share on FacebookShare on Twitter

Trong bối cảnh cấu trúc an ninh khu vực đang tái định hình dưới tác động của cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc và những biến chuyển phức tạp tại Đông Bắc Á, Quan hệ giữa Việt Nam và Triều Tiên được xem là một ví dụ điển hình phản ánh cách các quốc gia tầm trung điều chỉnh chính sách đối ngoại nhằm thích ứng với cục diện chính trị. Thông tin về việc Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam dự kiến thăm chính thức Bình Nhưỡng trong thời gian sắp tới đã tạo ra một động lực ngoại giao mới, đặt ra nhiều câu hỏi về hướng đi, phạm vi và hàm ý chiến lược của mối quan hệ song phương. Nghiên cứu tập trung phân tích động thái ngoại giao của Việt Nam trong khuôn khổ chiến lược “Ngoại giao cây tre” đặc trưng bởi sự mềm dẻo, độc lập và kiên định về nguyên tắc, nhằm làm rõ cách Việt Nam ứng phó với các tương tác quyền lực phức tạp trong khu vực. Đồng thời, đánh giá khả năng Hà Nội tiếp tục phát huy vai trò là một “cầu nối hòa bình” đáng tin cậy giữa Bình Nhưỡng và cộng đồng quốc tế, cũng như những tác động tiềm tàng của việc thúc đẩy quan hệ song phương đối với cấu trúc an ninh khu vực và các đối tác chiến lược chủ chốt của Việt Nam.

Di sản quan hệ hữu nghị truyền thống

Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Triều Tiên chính thức được thiết lập vào ngày 31 tháng 1 năm 1950, khi Triều Tiên trở thành một trong những quốc gia đầu tiên công nhận và thiết lập quan hệ chính thức với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong giai đoạn từ năm 1950 đến khi Việt Nam thống nhất (1975), mối quan hệ giữa hai nước khá chặt chẽ, Triều Tiên hỗ trợ miền Bắc Việt Nam về vật tư chiến lược, viện trợ kỹ thuật, đào tạo cán bộ và tiếp nhận lưu học sinh Việt Nam sang học tại Triều Tiên. Quan hệ chính trị – ngoại giao cũng được làm sâu sắc qua các chuyến thăm cấp cao: Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Triều Tiên năm 1957, Thủ tướng Kim Nhật Thành thăm Việt Nam năm 1958 và trở lại vào năm 1964 [1].

Sau khi Việt Nam thống nhất vào năm 1975, quan hệ giữa hai nước bắt đầu chịu ảnh hưởng phức tạp hơn từ bối cảnh quốc tế cũng như xung đột khu vực. Hai thập niên sau đó, quan hệ song phương hầu như bị đình trệ, hai bên chỉ duy trì kênh ngoại giao tối thiểu. Từ cuối thập niên 1990 và bước sang những năm 2000, mối quan hệ đã có sự cải thiện rõ rệt nhờ những nỗ lực ngoại giao song phương. Tháng 8 năm 2000, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Dy Niên có chuyến thăm chính thức tới Bình Nhưỡng [4]. Đây là chuyến thăm cấp cao đầu tiên của lãnh đạo ngoại giao Việt Nam đến Triều Tiên sau nhiều năm gián đoạn, mang ý nghĩa khởi động lại kênh đối thoại chính trị và thể hiện thiện chí của Hà Nội trong việc duy trì quan hệ truyền thống. Tiếp đó, tháng 7 năm 2001, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Hội nghị Nhân dân Tối cao Triều Tiên Kim Yong-nam đến thăm Việt Nam, đánh dấu sự đáp lễ ngoại giao và khẳng định mong muốn của Bình Nhưỡng khôi phục quan hệ hữu nghị [5]. Một năm sau, vào tháng 5 năm 2002, Chủ tịch nước Trần Đức Lương trở thành nguyên thủ Việt Nam đầu tiên thăm chính thức Triều Tiên, mở ra giai đoạn đối thoại chính trị cấp cao thường xuyên hơn [6].

Giai đoạn 2007-2008 được coi là đỉnh cao mới của quan hệ ngoại giao Việt-Triều kể từ sau Chiến tranh Lạnh, với mật độ các chuyến thăm cấp cao dày đặc. Năm 2007, nhiều lãnh đạo quan trọng của Việt Nam, trong đó có Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, đã thăm chính thức Bình Nhưỡng [7]. Cùng năm, Thủ tướng Triều Tiên Pak Pong-ju tiến hành chuyến thăm tới Hà Nội. Năm 2008, hàng loạt chuyến thăm và tiếp xúc ở cấp thứ trưởng, bộ trưởng giữa hai bên tiếp tục diễn ra, đưa quan hệ ngoại giao hai nước bước vào giai đoạn “ấm lên” rõ rệt. Nhìn tổng thể, giai đoạn này đánh dấu bước chuyển từ đối thoại cầm chừng sang khôi phục thực chất trong quan hệ Việt Nam-Triều Tiên. Các chuyến thăm cấp cao không chỉ giúp tháo gỡ khoảng cách chính trị do tác động của bối cảnh sau năm 1992, mà còn thể hiện nỗ lực của cả hai bên trong việc duy trì “di sản quan hệ hữu nghị truyền thống” vốn đã được gây dựng từ thời Hồ Chí Minh và Kim Nhật Thành.

Một trong những bước tiến nổi bật nhất trong quan hệ Việt Nam-Triều Tiên gần đây là chuyến thăm chính thức của Chủ tịch Triều Tiên Kim Jong Un tới Việt Nam vào tháng 3 năm 2019, diễn ra ngay sau khi Hà Nội đăng cai Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ-Triều lần thứ hai [8]. Chuyến thăm này có ý nghĩa chiến lược sâu sắc trên nhiều phương diện,thứ nhất, sự kiện khẳng định vai trò của Việt Nam không chỉ như một địa điểm “trung lập” được cộng đồng quốc tế tín nhiệm để tổ chức các cuộc đàm phán về an ninh toàn cầu, mà còn như một điểm hội tụ ngoại giao quan trọng tại khu vực Đông Nam Á. Thứ hai, đối với Bình Nhưỡng, chuyến thăm thể hiện nỗ lực tham khảo mô hình Đổi Mới thành công của Việt Nam-một quốc gia xã hội chủ nghĩa đã chuyển đổi sang kinh tế thị trường định hướng XHCN, hội nhập quốc tế sâu rộng mà vẫn duy trì ổn định chính trị. Điều này phản ánh sự quan tâm của Triều Tiên trong việc tìm kiếm kinh nghiệm phát triển kinh tế-xã hội từ một đối tác có nền tảng chính trị tương đồng. Cuối cùng, việc Triều Tiên lựa chọn Việt Nam như điểm đến cho chuyến công du cấp cao đã định vị Hà Nội như một kênh ngoại giao tiềm năng và một “cửa sổ” hiếm hoi để cộng đồng quốc tế tiếp cận với Bình Nhưỡng, qua đó khẳng định giá trị của quan hệ hữu nghị truyền thống trong bối cảnh biến động khu vực và toàn cầu.

Các chuyến thăm cấp cao được duy trì thường xuyên giữa Việt Nam và Triều Tiên là minh chứng rõ nét cho việc cả hai quốc gia đều coi trọng quan hệ ngoại giao và mong muốn tiếp tục củng cố nền tảng hữu nghị truyền thống đã được xây dựng hơn bảy thập niên qua. Mặc dù quan hệ song phương từng trải qua những giai đoạn thăng trầm do biến động của bối cảnh khu vực và quốc tế, hai bên vẫn không ngừng duy trì các kênh đối thoại và giao lưu nhân dân, thể hiện qua sự hợp tác đa tầng nấc-từ cấp lãnh đạo tối cao đến các bộ, ngành và tổ chức xã hội. Những hoạt động này không chỉ góp phần củng cố lòng tin chính trị mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau trong quá trình phát triển đất nước.

Trong lịch sử quan hệ Việt Nam-Triều Tiên, viện trợ nhân đạo là một trong những minh chứng rõ ràng nhất cho tình hữu nghị truyền thống giữa hai nước. Đặc biệt, từ giữa thập niên 1990, khi Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên rơi vào nạn đói nghiêm trọng (được quốc tế gọi là “Cuộc hành quân gian khổ”) [9], Việt Nam đã nhiều lần dành nguồn lực để hỗ trợ, bất chấp điều kiện kinh tế trong nước khi đó vẫn còn nhiều hạn chế.

Theo số liệu chính thức, năm 1995 Việt Nam viện trợ 100 tấn gạo cho Triều Tiên, mở đầu cho chuỗi hỗ trợ đều đặn trong gần hai thập niên tiếp theo. Đáng chú ý, năm 1997 khi tình hình nạn đói ở Triều Tiên đạt mức đỉnh điểm Việt Nam đã quyết định gửi tới 13.000 tấn gạo. Đây là một trong những gói viện trợ lương thực lớn nhất mà Việt Nam từng dành cho một quốc gia, thể hiện rõ sự chia sẻ khó khăn với một nước bạn bè cùng chung thể chế xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn 2000-2012, Việt Nam tiếp tục gửi nhiều đợt viện trợ, bao gồm: 1.000 tấn gạo (2000), 5.000 tấn gạo (2001 và 2002), 1.000 tấn gạo cùng 5 tấn cao su thô (2005), 50.000 USD và 2.000 tấn gạo cứu trợ khẩn cấp (2007), 3.000 tấn gạo (2009), 500 tấn (2010), 200 tấn (2011) và 5.000 tấn (2012) [10].

Điều đáng nói là các khoản viện trợ này được đưa ra trong bối cảnh Việt Nam vẫn đang trong quá trình phục hồi và phát triển từ khi tiến hành Đổi mới với nhiều khó khăn về nguồn lực. Chính sách đối ngoại của Hà Nội thời kỳ này không chỉ tập trung vào hội nhập kinh tế quốc tế mà còn duy trì truyền thống tương trợ, coi viện trợ nhân đạo là một biểu hiện cụ thể của tình đoàn kết quốc tế. Ở góc độ ngoại giao, viện trợ cho Triều Tiên giúp Việt Nam duy trì kênh liên lạc nhân đạo-chính trị trong những giai đoạn quan hệ song phương nguội lạnh hoặc chịu tác động từ biến động quốc tế.

Nếu đặt trong bức tranh rộng hơn, viện trợ của Việt Nam cho Triều Tiên mang tính liên tục với chính sách hỗ trợ các nước bạn bè truyền thống như Cuba, Lào, Campuchia. Trong mọi trường hợp, các khoản hỗ trợ này thường không dựa vào lợi ích kinh tế trực tiếp mà chủ yếu nhằm củng cố nền tảng chính trị, duy trì niềm tin chiến lược và khẳng định cam kết của Việt Nam đối với tinh thần “uống nước nhớ nguồn”, “giúp bạn là tự giúp mình”. Đây cũng là nét đặc thù của ngoại giao Việt Nam, vốn kết hợp giữa nguyên tắc thực dụng trong hội nhập quốc tế với yếu tố giá trị trong quan hệ với các đối tác truyền thống.

Nhìn chung, chuỗi viện trợ của Việt Nam cho Triều Tiên từ giữa thập niên 1990 đến đầu thập niên 2010 vừa mang tính biểu tượng vừa có giá trị thực chất, giúp giảm bớt khó khăn trước mắt cho người dân Triều Tiên, đồng thời góp phần duy trì sự gắn kết chính trị-ngoại giao giữa hai nước. Điều này chứng minh rằng “tình hữu nghị truyền thống” không chỉ được thể hiện qua diễn ngôn ngoại giao hay các chuyến thăm cấp cao, mà còn được hiện thực hóa bằng những hành động cụ thể, xuất phát từ tinh thần trách nhiệm và nhân văn trong chính sách đối ngoại của Việt Nam.

Việt Nam, với kinh nghiệm chuyển đổi và hội nhập kinh tế thành công, luôn thể hiện thiện chí hỗ trợ Triều Tiên trong việc tháo gỡ tình trạng cô lập và thúc đẩy phát triển bền vững. Hà Nội nhiều lần bày tỏ sẵn sàng chia sẻ mô hình phát triển kinh tế-xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực quản lý nhà nước, cải cách kinh tế và phát triển nguồn nhân lực. Ở chiều ngược lại, Bình Nhưỡng cũng chủ động cử các đoàn đại biểu sang Việt Nam nhằm học tập kinh nghiệm thực tiễn, qua đó mở rộng hiểu biết về con đường phát triển phù hợp với điều kiện trong nước. Sự hợp tác mang tính tương hỗ và thiện chí này không chỉ giúp hai bên củng cố quan hệ hữu nghị truyền thống, mà còn tạo nền tảng cho việc nâng tầm quan hệ Việt Nam-Triều Tiên trong bối cảnh mới của khu vực, hướng tới một mối quan hệ đối tác thực chất, ổn định và cùng có lợi trong tương lai.

Bước đột phá trong quan hệ hai nước?

Theo thông cáo chính thức từ Bộ Ngoại giao Việt Nam, Tổng Bí thư Tô Lâm sẽ thực hiện chuyến thăm cấp Nhà nước tới Triều Tiên từ ngày 9 đến 11 tháng 10 năm 2025 [11] theo lời mời của Tổng Bí thư Đảng Lao động Triều Tiên, Chủ tịch Quốc vụ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên Kim Jong Un và dự Lễ kỷ niệm 80 năm thành lập Đảng Lao động Triều Tiên. Đây sẽ là chuyến công du đầu tiên của một lãnh đạo cao cấp Việt Nam sang Bình Nhưỡng sau gần 20 năm (kể từ chuyến thăm của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh năm 2007) [12]. Chuyến thăm sẽ diễn ra vào dịp hai nước kỷ niệm 75 năm quan hệ (31/1/2025) vừa qua, hai bên đã trao đổi điện mừng về cột mốc này, tuyên bố sẽ xem năm 2025 là “Năm hữu nghị Việt-Triều”. Việc lãnh đạo cấp cao gặp gỡ có thể củng cố tuyên bố chính trị này, khẳng định “truyền thống hữu nghị, đoàn kết” giữa hai đảng và nhà nước. Đó cũng là cơ hội để lãnh đạo hai nước tái xác nhận mong muốn tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực như đã nêu trong điện mừng.

Nội dung trọng tâm của chuyến thăm nhiều khả năng sẽ tập trung vào việc củng cố và làm sâu sắc hơn quan hệ hữu nghị truyền thống giữa Việt Nam và Triều Tiên, vốn được xây dựng trên nền tảng lịch sử lâu dài và chia sẻ về ý thức hệ. Mục tiêu chính là tái khẳng định cam kết chính trị cấp cao, đồng thời mở rộng các lĩnh vực hợp tác thiết thực, phù hợp với lợi ích và năng lực hiện nay của hai bên. Về hợp tác văn hóa-giáo dục, hai nước có thể thúc đẩy các chương trình trao đổi văn hóa, nghệ thuật và ngôn ngữ, nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa thế hệ trẻ. Trong lĩnh vực y tế và quân y, hai bên có thể nối lại hoặc mở rộng các hình thức hợp tác nhân đạo và y học cổ truyền, vốn là thế mạnh của cả hai nước. Như đã được đề cập trong Đối ngoại Quốc phòng Việt Nam năm 2024, khả năng tăng cường hợp tác quân y và kỹ thuật quân sự có thể được đưa vào thảo luận. Việt Nam có thể chia sẻ kinh nghiệm về y tế quân đội, phòng chống dịch bệnh, cứu trợ nhân đạo trong điều kiện khẩn cấp, và đào tạo chuyên môn trong lĩnh vực y học cổ truyền quân sự. Về mặt ngoại giao nhân đạo, các hoạt động trao đổi đoàn, thăm hỏi lẫn nhau, tặng quà hữu nghị, viện trợ nhân đạo y tế hoặc lương thực có thể được triển khai như một biểu tượng của quan hệ truyền thống. Những cử chỉ này không chỉ mang ý nghĩa biểu trưng mà còn góp phần duy trì kênh đối thoại mềm, tăng cường lòng tin chính trị và củng cố vị thế của Việt Nam như một đối tác cân bằng, độc lập và thiện chí trong khu vực Đông Bắc Á.

Cần lưu ý rằng, Triều Tiên hiện chịu lệnh trừng phạt gắt gao của Liên Hiệp Quốc liên quan chương trình vũ khí hạt nhân, nên mọi hoạt động kinh tế, tài chính với Triều Tiên đều bị kiểm soát. Sự tuân thủ nghiêm ngặt của Việt Nam đối với các nghị quyết UNSC tạo ra một rào cản pháp lý không thể xuyên thủng đối với mọi hình thức đột phá kinh tế thực chất. Hợp tác kinh tế và thương mại giữa hai nước là “không đáng kể trong gần ba thập kỷ”. Bất kỳ động thái nào của nhằm mở rộng thương mại song phương hoặc chuyển giao các công nghệ thuộc diện cấm đều có thể dẫn đến nguy cơ phải hứng chịu các lệnh trừng phạt thứ cấp từ Mỹ và các đối tác phương Tây. Điều này đe dọa trực tiếp đến vai trò của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu và dòng vốn FDI từ Hàn Quốc, hiện là nhà đầu tư hàng đầu tại Việt Nam. Do đó, hợp tác kinh tế trong chuyến thăm này sẽ chỉ giới hạn ở mức độ biểu tượng hoặc phi thương mại.

Về lĩnh vực quân sự, triển vọng hợp tác giữa Việt Nam và Triều Tiên trong bối cảnh hiện nay có thể được nhìn nhận dưới góc độ vừa mở rộng có chọn lọc, vừa hạn chế về phạm vi. Trước hết, hợp tác quốc phòng song phương nhiều khả năng sẽ tập trung vào những lĩnh vực “an toàn về chính trị”, tức là các hoạt động ít nhạy cảm, không tác động trực tiếp đến cân bằng chiến lược trong khu vực và cũng không vi phạm các nghị quyết trừng phạt của Liên Hợp Quốc. Cụ thể, hai bên có thể đẩy mạnh trao đổi đoàn quốc phòng ở nhiều cấp độ nhằm tăng cường tin cậy chính trị và củng cố kênh liên lạc quân sự, tổ chức các chương trình huấn luyện hoặc diễn tập chung trong các lĩnh vực phi truyền thống như phòng chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn, y tế quân sự; hoặc mở rộng hợp tác biên phòng nhằm chống buôn lậu, ngăn chặn di cư bất hợp pháp và các hoạt động xuyên quốc gia khác. Triển vọng về một “bước đột phá” thực chất trong hợp tác quân sự, chẳng hạn như mua bán vũ khí hiện đại, phát triển chung công nghiệp quốc phòng, hay ký kết các thỏa thuận an ninh mang tính ràng buộc là điều khó có thể xảy ra.

Đối với Việt Nam mục tiêu chính trị là tái khẳng định chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ (Ngoại giao Cây Tre) và củng cố quan hệ truyền thống. Về mặt chiến lược, chuyến thăm nhằm duy trì kênh đối thoại với Bình Nhưỡng, giữ cho Việt Nam có khả năng đóng vai trò là “cầu nối” hoặc trung gian tiềm năng trong tương lai cho các bên liên quan (như Mỹ, Hàn Quốc). Đối với Triều Tiên, kỳ vọng chuyến thăm phần nào phá vỡ sự cô lập ngoại giao, đặc biệt là từ một quốc gia Đông Nam Á thành công trong cải cách. Triều Tiên cũng sẽ tiếp tục tìm hiểu sâu hơn về quá trình chuyển đổi kinh tế của Việt Nam, mặc dù sự sẵn lòng từ bỏ chương trình hạt nhân vẫn còn là một câu hỏi lớn.

Quan điểm của các nước lớn

Mỹ luôn theo dõi sát sao mọi động thái liên quan đến chương trình hạt nhân và tên lửa của Triều Tiên. Trong chiến lược của Washington, trọng tâm là buộc Bình Nhưỡng từ bỏ vũ khí hạt nhân và chịu sự giám sát quốc tế. Việt Nam được xem là “mô hình khả dĩ” mà Triều Tiên có thể học tập trong việc hoà giải với Mỹ sau chiến tranh. Trong những cuộc tiếp xúc chính thức, các quan chức Mỹ nhiều lần nêu ví dụ về sự “chuyển hóa ngoạn mục” của quan hệ Việt-Mỹ từ đối đầu sang đối tác toàn diện như một minh chứng mà Triều Tiên có thể học hỏi.

Thiện chí thúc đẩy đối thoại không đồng nghĩa với việc Washington sẽ nới lỏng lập trường cứng rắn. Chính sách nhất quán của Mỹ, được các đồng minh chủ chốt như Hàn Quốc và Nhật Bản ủng hộ, là duy trì các biện pháp trừng phạt nghiêm ngặt cho đến khi Bình Nhưỡng thực hiện những bước đi cụ thể và không thể đảo ngược trong tiến trình giải trừ hạt nhân. Ngay cả trong thời điểm có sự tham gia trực tiếp của Tổng thống Donald Trump tại Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ-Triều tổ chức tại Hà Nội (2019) [13], Nhà Trắng vẫn không đưa ra bất kỳ nhượng bộ thực chất nào về dỡ bỏ cấm vận, cho thấy ranh giới rõ ràng trong chính sách của Washington. Đối với Việt Nam, việc mở rộng hợp tác với Triều Tiên sẽ luôn được cân nhắc thận trọng để tránh tạo ra tác động tiêu cực đối với mối quan hệ đang phát triển mạnh mẽ với Mỹ. Báo chí quốc tế nhiều lần nhận định rằng tam giác quan hệ Việt Nam-Mỹ-Hàn Quốc hiện đang ở giai đoạn gắn bó chặt chẽ, trong đó hợp tác kinh tế và thương mại đóng vai trò nền tảng.

Quan điểm của Washington là hoan nghênh mọi sáng kiến có thể giúp đưa Triều Tiên quay lại lộ trình phi hạt nhân hóa. Song, ưu tiên cao nhất trong chiến lược của Mỹ vẫn là bảo đảm an ninh khu vực và sự an toàn cho các đồng minh then chốt, đặc biệt là Hàn Quốc và Nhật Bản.

Đối với Hàn Quốc, vấn đề Triều Tiên luôn là mối quan tâm an ninh hàng đầu. với tư cách là đồng minh quan trọng của Mỹ và là cường quốc kinh tế đứng hàng đầu tại Đông Bắc Á, có lợi ích trực tiếp trong các diễn biến tại bán đảo Triều Tiên. Seoul hiện là một trong những đối tác kinh tế lớn nhất của Việt Nam đầu tư trực tiếp của Hàn Quốc vào Việt Nam lên tới hơn 90 tỷ USD [14], chuyến thăm cấp Nhà nước của Tổng Bí thư Tô Lâm tới Hàn Quốc từ ngày 10-13/8/2025 theo lời mời của Tổng thống Lee Jae Myung đã củng cố hơn nữa quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện Việt Nam-Hàn Quốc [15], với mục tiêu nâng kim ngạch thương mại song phương lên 150 tỷ USD vào năm 2030. Điều này cho thấy Seoul coi trọng Hà Nội không chỉ như một đối tác kinh tế mà còn là một nhân tố ngoại giao có khả năng cân bằng và điều tiết các mối quan hệ phức tạp trong khu vực, mối quan hệ kinh tế, đầu tư mật thiết này khiến Hàn Quốc không muốn tình hình khu vực leo thang căng thẳng. Trong kịch bản Việt Nam có động thái gia tăng sự gần gũi với Triều Tiên, Chính phủ Hàn Quốc có thể nảy sinh những quan ngại chiến lược, mối bận tâm chủ yếu có thể xoay quanh nguy cơ gián tiếp mà sự căng thẳng giữa Bình Nhưỡng và Seoul (hay rộng hơn là căng thẳng địa chính trị khu vực) có thể ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường kinh doanh và sự an toàn của các khoản đầu tư và doanh nghiệp Hàn Quốc đang hoạt động tại Việt Nam. Đây là một sự tính toán phức tạp giữa lợi ích an ninh quốc gia và lợi ích kinh tế trực tiếp.

Đối với Trung Quốc, Việt Nam được xem là một đối tác chiến lược có vị thế đặc biệt trong cấu trúc khu vực Đông Á. Quan hệ song phương đã được nâng cấp lên Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, phản ánh tầm quan trọng của Việt Nam trong chính sách đối ngoại khu vực của Bắc Kinh, nơi Hà Nội được xác định là “một trong những ưu tiên hàng đầu”. Trong chuyến thăm Việt Nam của Tổng Bí thư Tô Lâm vào tháng 8 năm 2024 [16], Trung Quốc thể hiện rõ thiện chí chính trị thông qua nghi thức đón tiếp trọng thị và các tuyên bố nhấn mạnh sự ủng hộ đối với con đường xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đang duy trì và phát triển.

Là đồng minh truyền thống và đối tác trong Hiệp ước Hữu nghị, Hợp tác và Tương trợ lẫn nhau ký năm 1961 [17], Trung Quốc xem Triều Tiên là vùng đệm chiến lược quan trọng bảo đảm an ninh khu vực Đông Bắc Á. Bắc Kinh vừa mong muốn duy trì ảnh hưởng đối với Bình Nhưỡng, vừa lo ngại nguy cơ bất ổn nếu chế độ Triều Tiên sụp đổ, điều có thể dẫn đến làn sóng tị nạn và sự hiện diện quân sự mở rộng của Mỹ-Hàn gần biên giới Trung Quốc. Do đó, chính sách của Bắc Kinh đối với Bình Nhưỡng mang tính “kiểm soát rủi ro” hơn là “định hướng thay đổi”: khuyến khích Triều Tiên cải cách kinh tế ở mức duy trì chế độ, đồng thời kiềm chế các hành động khiêu khích quân sự có thể làm leo thang căng thẳng khu vực.

Trong quan hệ Việt Nam-Triều Tiên, Trung Quốc nhìn chung giữ thái độ tích cực và thận trọng, Bắc Kinh nhận thấy lợi ích trong việc duy trì mối bang giao ổn định giữa hai quốc gia xã hội chủ nghĩa từng có quan hệ truyền thống với nền tảng ý thức hệ tương đồng, điều đó không chỉ củng cố mạng lưới ảnh hưởng chính trị lịch sử mà còn tránh tạo ra các trục đối đầu mới trong khu vực. Từ góc độ chiến lược, Trung Quốc ủng hộ việc Triều Tiên ổn định nội bộ và cải cách kinh tế từng bước, miễn là điều đó không kéo theo sự thay đổi định hướng chính trị hay làm suy yếu ảnh hưởng của Bắc Kinh trên bán đảo Triều Tiên. Trung Quốc xem việc Việt Nam và Triều Tiên duy trì quan hệ hữu nghị là một yếu tố tích cực, góp phần giữ cân bằng khu vực và bảo toàn trật tự chiến lược truyền thống do Bắc Kinh định hình.

Các nước phương Tây có cách tiếp cận tương đối thống nhất đối với Triều Tiên là duy trì sức ép ngoại giao và kinh tế thông qua các biện pháp trừng phạt, đồng thời khuyến khích các kênh đối thoại nhằm giảm căng thẳng. Liên minh châu Âu (EU) nhiều lần tuyên bố ủng hộ tiến trình phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên và nhấn mạnh cần giải quyết vấn đề thông qua đối thoại đa phương, tuân thủ luật pháp quốc tế. Anh và Úc, trong tư cách là đồng minh thân cận của Mỹ và đối tác an ninh trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, nhìn nhận quan hệ Việt Nam-Triều Tiên trong khuôn khổ rộng hơn của cạnh tranh chiến lược Mỹ-Trung. Các nước này coi Việt Nam là một đối tác quan trọng trong việc duy trì trật tự dựa trên luật lệ, do đó mong muốn Việt Nam tiếp tục giữ lập trường cân bằng, tránh làm suy yếu nỗ lực quốc tế trong việc gây sức ép lên Bình Nhưỡng.

Tổng thể, mặc dù các cường quốc đều theo dõi quan hệ Việt Nam-Triều Tiên, song quan điểm có sự khác biệt. Mỹ và Hàn Quốc nhấn mạnh yêu cầu phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên, đồng thời xem Việt Nam như một đối tác chính trị-kinh tế quan trọng trong khu vực. Ngược lại, Trung Quốc và Nga, với tư cách là các đồng minh truyền thống của Bình Nhưỡng, ủng hộ việc duy trì và củng cố quan hệ Việt-Triều như một nhân tố góp phần bảo đảm ổn định khu vực. Cho đến nay, chưa có tín hiệu nào cho thấy quan hệ song phương này sẽ làm thay đổi cán cân chiến lược, song Việt Nam vẫn phải khéo léo cân bằng lợi ích giữa các bên để bảo vệ an ninh quốc gia. Trong toàn cảnh, việc duy trì hình ảnh là một “cầu nối” trung lập và đáng tin cậy không chỉ giúp Việt Nam hạn chế rủi ro từ cạnh tranh cường quốc, mà còn mở ra cơ hội nâng cao uy tín và vị thế quốc tế.

Tác động đến cấu trúc an ninh khu vực

Trong lý thuyết quan hệ quốc tế, nền an ninh Đông Bắc Á được định hình chủ yếu bởi “cơ chế răn đe” (deterrence), “cân bằng quyền lực” (balance of power), và “tình thế an ninh lưỡng nan” (security dilemma).

“Răn đe” (deterrence) [18],  được hiểu là một chiến lược nhằm ngăn chặn hành vi gây hấn bằng cách khiến cho đối phương nhận thấy rằng cái giá phải trả cho hành động đó sẽ vượt xa bất kỳ lợi ích nào đạt được. Nói cách khác, an ninh được duy trì không phải thông qua việc tấn công, mà bằng cách khiến đối phương sợ hãi hậu quả của việc tấn công. Cơ chế răn đe này dựa trên ba yếu tố then chốt: năng lực, uy tín và khả năng trả đũa. Ở Đông Bắc Á, Mỹ đóng vai trò hạt nhân trong việc cung cấp răn đe mở rộng (extended deterrence) cho các đồng minh là Hàn Quốc và Nhật Bản. Thông qua việc cam kết sử dụng sức mạnh quân sự, bao gồm cả vũ khí hạt nhân, Mỹ đảm bảo rằng mọi hành động tấn công nhắm vào hai quốc gia này đều sẽ bị đáp trả mạnh mẽ. Cơ chế này được thiết kế không chỉ nhằm bảo vệ các đồng minh, mà còn để ngăn chặn Triều Tiên và trong một chừng mực nào đó là Trung Quốc, tránh việc tiến hành các hành động leo thang quân sự.

“Cân bằng quyền lực” (balance of power) [19] là một trong những khái niệm trung tâm của lý thuyết hiện thực (realism) trong quan hệ quốc tế, cho rằng hòa bình và ổn định được duy trì khi không có quốc gia nào đủ sức áp đảo các quốc gia khác. Nói cách khác, khi quyền lực giữa các chủ thể được phân bổ tương đối cân bằng, nguy cơ xung đột giảm đi vì không bên nào tin rằng mình có thể chiến thắng dễ dàng. Trong cấu trúc an ninh Đông Bắc Á, cơ chế cân bằng quyền lực thể hiện rõ qua các tương tác giữa Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Triều Tiên. Sự hiện diện quân sự của Mỹ cùng với các liên minh song phương với Tokyo và Seoul tạo nên một “cực cân bằng” đối trọng với Trung Quốc và Triều Tiên, trong khi Bắc Kinh lại củng cố ảnh hưởng thông qua sức mạnh kinh tế, hiện đại hóa quân sự và quan hệ đối tác chiến lược với Nga.

Khái niệm “tình thế an ninh lưỡng nan” (security dilemma) [20] được Robert Jervis phát triển để giải thích nghịch lý trong quan hệ quốc tế: khi một quốc gia tìm cách tăng cường an ninh cho mình, bằng việc mở rộng quân đội, triển khai vũ khí, hay củng cố liên minh, hành động đó có thể bị các quốc gia khác hiểu nhầm là đe dọa. Kết quả là những quốc gia này cũng tăng cường quân bị để tự vệ, tạo ra một vòng xoáy chạy đua vũ trang mà trong đó mọi bên đều cảm thấy kém an toàn hơn, dù không bên nào thực sự có ý định tấn công trước. Đông Bắc Á là ví dụ điển hình cho tình thế này, Triều Tiên biện minh rằng chương trình hạt nhân và tên lửa đạn đạo của họ là công cụ tự vệ, nhằm ngăn chặn khả năng bị tấn công hoặc thay đổi chế độ. Tuy nhiên, Mỹ, Hàn Quốc và Nhật Bản lại xem đó là mối đe dọa nghiêm trọng đối với an ninh khu vực. Để đáp trả, họ tăng cường liên minh, triển khai thêm hệ thống phòng thủ, và mở rộng năng lực tác chiến chung. Hệ quả là Triều Tiên lại cảm thấy bị bao vây và tiếp tục tăng tốc phát triển vũ khí hạt nhân, một vòng lặp điển hình của “an ninh lưỡng nan”.

Liên hệ lý thuyết răn đe (deterrence) và an ninh lưỡng nan (security dilemma) với quan hệ Việt Nam-Triều Tiên, có thể nhận thấy mối quan hệ này tuy không mang tính chất đối đầu hay quân sự trực tiếp, nhưng vẫn chịu ảnh hưởng gián tiếp từ cấu trúc an ninh Đông Bắc Á, nơi hai cơ chế này chi phối mạnh mẽ hành vi của các chủ thể khu vực. trong bối cảnh răn đe và đối đầu chiến lược giữa Mỹ-Hàn-Nhật với Triều Tiên, Việt Nam cần duy trì một lập trường cân bằng, tránh bị cuốn vào các liên minh hay cơ chế răn đe tập thể. Hà Nội nhất quán theo chính sách “bốn không”, trong đó nhấn mạnh không tham gia liên minh quân sự, không liên kết với nước này để chống lại nước khác, không cho nước ngoài đặt căn cứ, và không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực[21]. Cách tiếp cận này giúp Việt Nam duy trì vị thế trung lập, tránh bị xem là thành tố trong cấu trúc răn đe mà Mỹ triển khai ở Đông Bắc Á, đồng thời vẫn giữ được quan hệ hữu nghị truyền thống với Bình Nhưỡng.

Trong khi đó, Đông Nam Á lại được định hình nhiều hơn bởi ngoại giao đa phương và cơ chế ASEAN, nguyên tắc “trung tâm ASEAN” cùng các diễn đàn như ARF (Diễn đàn Khu vực ASEAN) hay ADMM+ (Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN Mở rộng) đóng vai trò then chốt. ASEAN vốn theo đuổi nguyên tắc tránh quân sự hóa và duy trì ổn định, do đó sẽ không muốn bất kỳ quốc gia thành viên nào tiến hành hợp tác quân sự sâu với Triều Tiên, một bên đang chịu cấm vận quốc tế. Tuy nhiên, ở chiều ngược lại, ASEAN có thể tận dụng quan hệ đặc thù giữa Việt Nam và Triều Tiên để giữ một kênh đối thoại gián tiếp với Bình Nhưỡng, điều mà không phải quốc gia Đông Nam Á nào cũng duy trì được. Đây là một dạng “ngoại giao cầu nối”, phù hợp với truyền thống chính sách đối ngoại của Việt Nam, đồng thời củng cố vai trò trung tâm của ASEAN trong việc xử lý các vấn đề an ninh ngoài khu vực.

Tại khu vực Đông Nam Á , các quốc gia vừa và nhỏ thường áp dụng chiến lược “phòng ngừa rủi ro (hedging)” [22] tức cách tiếp cận quan hệ quốc tế trung gian, linh hoạt, duy trì sự độc lập, thay vì chọn một phe rõ ràng, quốc gia sử dụng chiến lược hedging vừa hợp tác,vừa đề phòng với các cường quốc, nhằm tối đa hóa lợi ích kinh tế,chính trị, đồng thời giảm thiểu rủi ro an ninh trong môi trường cạnh tranh nước lớn. Trên thực tế, Việt Nam duy trì quan hệ hợp tác kinh tế sâu rộng với Trung Quốc, coi đây là một trong những đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu. Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam và đóng vai trò đáng kể trong chuỗi cung ứng, đầu tư và thương mại song phương. Việt Nam chủ trương thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại và kết nối khu vực một cách thực chất, đồng thời xử lý các vấn đề còn tồn tại, trong đó có Biển Đông, bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS 1982. Điều này thể hiện rõ định hướng “vừa hợp tác, vừa đấu tranh” đặc trưng của cách tiếp cận hedging theo cách Việt Nam vận dụng.

Đối với vấn đề biển Đông, Triều Tiên không phải là bên có khả năng hỗ trợ quân sự hoặc công nghệ cho Việt Nam trong vấn đề này. Do đó, tác động trực tiếp của quan hệ Việt-Triều tới các tính toán an ninh hàng hải là hạn chế. Lợi ích lớn nhất đối với Việt Nam có lẽ nằm ở giá trị chính trị, củng cố vị thế ngoại giao độc lập, khẳng định tính đa dạng hóa quan hệ, và tạo thêm một “lá bài” trong việc duy trì cân bằng chiến lược giữa các cực lớn.

Yếu tố nhận thức trong chính trị quốc tế có vai trò rất lớn. Dư luận và truyền thông quốc tế có thể thổi phồng những tín hiệu ngoại giao, biến các chuyến thăm hay tuyên bố mang tính biểu tượng thành những “thông điệp chiến lược” khó lường. Trong bối cảnh căng thẳng Đông Bắc Á leo thang, một phát biểu ủng hộ quá mức từ phía Bình Nhưỡng có thể bị diễn dịch như một cam kết ngầm về an ninh, dù trên thực tế không có ý định này, nguy cơ “sai lệch tín hiệu chiến lược” cũng là điều hết sức cẩn trọng.

Tổng thể, quan hệ Việt Nam-Triều Tiên, dù không mang tính chất quân sự hay ảnh hưởng trực tiếp đến cấu trúc răn đe ở Đông Bắc Á, vẫn có giá trị chiến lược trong chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ của Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á. Trong một môi trường khu vực bị chi phối bởi cạnh tranh nước lớn, Việt Nam khéo léo vận dụng nguyên tắc “bốn không” và chiến lược “phòng ngừa rủi ro” (hedging) để duy trì thế cân bằng, tránh bị lôi kéo vào các khối đối đầu, đồng thời giữ vai trò tác nhân ổn định và cầu nối ngoại giao giữa các bên. Điều này không chỉ củng cố vị thế của Việt Nam trong ASEAN, mà còn khẳng định vai trò của Hà Nội như một nhân tố điều tiết mềm trong cấu trúc an ninh đang chuyển biến phức tạp của khu vực Đông Bắc Á và Đông Nam Á.

Đề xuất định hướng chính sách

Trong bối cảnh môi trường an ninh khu vực đang diễn biến phức tạp, đồng thời quan hệ Việt Nam-Triều Tiên tiềm ẩn cả cơ hội lẫn thách thức, Hà Nội đứng trước yêu cầu phải quản trị một cách thận trọng và chiến lược nhằm duy trì sự cân bằng giữa lợi ích chiến lược quốc gia, các rủi ro tiềm ẩn từ cục diện quốc tế, và cam kết hội nhập toàn cầu. Những vấn đề trọng yếu mà Việt Nam cần quan tâm không chỉ bao gồm các nguy cơ pháp lý, ngoại giao và an ninh, mà còn liên quan trực tiếp đến uy tín quốc gia, ổn định kinh tế, cũng như khả năng duy trì quan hệ bền vững với các đối tác chiến lược và khu vực. Trên cơ sở phân tích tổng thể này, có thể đề xuất một số định hướng chính sách cụ thể trong thời gian tới, bao gồm:

Thứ nhất, tuân thủ nghiêm ngặt các cam kết và nghị quyết quốc tế, tuyệt đối tránh mọi hoạt động có thể bị coi là vi phạm lệnh trừng phạt của Liên Hợp Quốc hay Mỹ đối với Triều Tiên. Mọi hợp tác kinh tế, thương mại phải minh bạch, có sự giám sát chặt chẽ và tuân thủ luật pháp quốc tế. Đây là cách để giảm thiểu nguy cơ bị áp đặt trừng phạt thứ cấp hoặc bị mất uy tín trên trường quốc tế.

Thứ hai, duy trì đối thoại với các đối tác chiến lược, Hàn Quốc, Nhật Bản và Mỹ là những đối tác trọng yếu của Việt Nam cả về kinh tế lẫn an ninh. Việt Nam cần thường xuyên trao đổi, minh định rõ mục tiêu trong quan hệ với Triều Tiên. Thông điệp ngoại giao cần khẳng định rằng Việt Nam ủng hộ hòa bình, phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên và định hình quan hệ với Bình Nhưỡng như một phần của chính sách đa phương hóa, không mang tính “ngả về”.

Thứ ba, quản trị hình ảnh và truyền thông quốc tế, một chiến lược truyền thông minh bạch, có định hướng là cần thiết. Việt Nam nhấn mạnh đến tính lịch sử, hữu nghị truyền thống và đối thoại hòa bình trong quan hệ với Triều Tiên, đồng thời tái khẳng định cam kết gắn bó với ASEAN, Liên Hợp Quốc và cộng đồng quốc tế. Như vậy, vừa duy trì kênh ngoại giao với Bình Nhưỡng, vừa bảo vệ được hình ảnh quốc gia “độc lập, hòa bình và hội nhập”.

Thứ tư, xác định giới hạn hợp tác thực chất với Bình Nhưỡng, Trong bối cảnh Triều Tiên vẫn đang chịu các lệnh trừng phạt nghiêm ngặt của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc và một số quốc gia phương Tây, Việt Nam cần xác định rõ giới hạn hợp tác thực chất với Bình Nhưỡng để bảo đảm cân bằng giữa lợi ích chính trị, ngoại giao và nghĩa vụ pháp lý quốc tế. Các nghiên cứu về chính sách đối ngoại của các quốc gia tầm trung cho thấy, khi tham gia tương tác với những đối tác bị cô lập quốc tế, việc quản trị ranh giới hợp tác đóng vai trò sống còn trong việc duy trì “tính hợp pháp chiến lược” của chính sách đối ngoại. “Giới hạn hợp tác thực chất” không nên được hiểu là sự thu hẹp hay cắt giảm quan hệ, mà là một cơ chế quản trị rủi ro có tính chiến lược, giúp Việt Nam cân bằng giữa lợi ích chính trị, uy tín ngoại giao và tuân thủ pháp luật quốc tế. Cách tiếp cận này sẽ cho phép Hà Nội duy trì được “mức độ tương tác tối ưu” với Bình Nhưỡng, vừa đủ để bảo tồn kênh đối thoại, song không vượt quá ngưỡng có thể gây tổn hại đến quan hệ với các đối tác chủ chốt khác trong khu vực và trên thế giới.

Kết luận

Cho đến nay, chưa có dấu hiệu nào cho thấy quan hệ song phương Việt Nam-Triều Tiên sẽ làm thay đổi cán cân chiến lược trong khu vực,trên thực tế, mối quan hệ này được duy trì trong khuôn khổ hợp tác song phương mang tính kế thừa và ổn định, phản ánh đặc trưng của ngoại giao duy trì hiện trạng giữa hai quốc gia có nền tảng hữu nghị truyền thống. Trong bối cảnh môi trường chính trị khu vực đầy bất định, cách tiếp cận này giúp Việt Nam khẳng định bản sắc “ Ngoại giao cây tre” mềm dẻo, linh hoạt nhưng kiên định về nguyên tắc, qua đó củng cố vị thế của Hà Nội như một chủ thể độc lập, có trách nhiệm và đáng tin cậy trong hệ thống quốc tế./.

Tác giả: Bùi Thiên Bảo

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của Nghiên cứu Chiến lược. Mọi trao đổi học thuật và các vấn đề khác, quý độc giả có thể liên hệ với ban biên tập qua địa chỉ mail: [email protected]

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. ĐPH Tổng hợp (2019). Thăng trầm trong quan hệ Việt Nam và Bắc Triều Tiên từ sau 1945. Khoa Đông Phương học, <https://fos.ussh.vnu.edu.vn/vi/news/tin-hoat-dong/thang-tram-trong-quan-he-viet-nam-va-bac-trieu-tien-tu-sau-1945-674.html>, accessed: 30/09/2025.

2. Kruarattikan S. (2018). North Korean views on Vietnam: From fraternal friendship. Interdiscip Res Rev, 13(1), 67–70.

3. NCNK (National Committee on North Korea) (2019), DPRK Diplomatic Relations, National Committee on North Korea, Washington, D.C.

4. Thông Tin Cơ Bản Về CHDCND Triều Tiên Và Quan Hệ Việt Nam – Triều Tiên. <https://dsq.mofa.gov.vn/vi/web/guest/tin-chi-tiet/chi-tiet/thong-tin-co-ban-ve-chdcnd-trieu-tien-va-quan-he-viet-nam-trieu-tien–589.html>.

5. Bộ Ngoại giao Việt Nam (2001). Vietnam-DPR Korea Joint Communique. <https://vietnamembassy-usa.org/news/2001/07/vietnam-dpr-korea-joint-communique>.

6. Embassy of the Socialist Republic of Vietnam in the United States (2002). Vietnamese and DPR of Korea leaders hold talks. <https://vietnamembassy-usa.org/news/2002/05/vietnamese-and-dpr-korea-leaders-hold-talks>.

7. Báo Chính phủ Việt Nam (2007). Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh thăm chính thức CHDCND Triều Tiên. <https://baochinhphu.vn/tong-bi-thu-nong-duc-manh-tham-chinh-thuc-chdcnd-trieu-tien-10215239.htm>.

8. TTXVN (2019). Đồng chí Chủ tịch Triều Tiên Kim Jong-un đến ga Đồng Đăng bắt đầu thăm Việt Nam. <https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/hoat-ong-cua-lanh-ao-ang-nha-nuoc/-/2018/54248/dong-chi-chu-tich-trieu-tien-kim-jong-un-den-ga-dong-dang-bat-dau-tham-viet-nam.aspx>.

9. Kang Hyun-kyung (2022). Fear of deadliest famine in 1990s haunts North Korea amid national lockdown. <https://www.koreatimes.co.kr/foreignaffairs/northkorea/20220518/fear-of-deadliest-famine-in-1990s-haunts-north-korea-amid-national-lockdown>.

10. Bộ Ngoại giao Việt Nam (2018), Tài liệu cơ bản về Triều Tiên và quan hệ Việt Nam – Triều Tiên, Bộ Ngoại giao Việt Nam, Hà Nội.

11. Duy Linh (2025). Tổng Bí thư Tô Lâm thăm cấp nhà nước Triều Tiên từ ngày 9‑10. <https://tuoitre.vn/tong-bi-thu-to-lam-tham-cap-nha-nuoc-trieu-tien-tu-ngay-9-10-20251006102302573.htm>.

12. Reuters Staff (2025). Vietnam’s top leader to pay rare visit to North Korea in October, sources say. Reuters, <https://www.reuters.com/world/china/vietnams-top-leader-pay-rare-visit-north-korea-october-sources-say-2025-09-25/>.

13. The White House (2019). White House Press Release – President Donald J. Trump Put America First During the Hanoi Summit. The American Presidency Project, <https://www.presidency.ucsb.edu/documents/white-house-press-release-president-donald-j-trump-put-america-first-during-the-hanoi>.

14. South Korea’s Important Role in Vietnam’s Rapid Development. <https://keia.org/the-peninsula/south-koreas-important-role-in-vietnams-rapid-development/>.

15. TTXVN (2025). Tổng Bí thư Tô Lâm và Phu nhân thăm cấp Nhà nước Đại Hàn Dân Quốc từ ngày 10-13/8. <https://baochinhphu.vn/tong-bi-thu-to-lam-va-phu-nhan-tham-cap-nha-nuoc-dai-han-dan-quoc-tu-ngay-10-13-8-10225080710401013.htm>.

16. Báo Điện tử Chính phủ (2024). Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm và Phu nhân kết thúc tốt đẹp chuyến thăm cấp Nhà nước tới Trung Quốc. <https://baochinhphu.vn/tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-to-lam-va-phu-nhan-ket-thuc-tot-dep-chuyen-tham-cap-nha-nuoc-toi-trung-quoc-102240820173438522.htm>.

17. Son D. và Han Y. (2024). We Are Brothers but Not Allies: The Sino-DPRK Alliance Revisited. Pacific Affairs, 97, 5–28.

18. Freedman L. (1989). General deterrence and the balance of power. Review of International Studies, 15(2), 199–210.

19. Duerr G.M.E. và Wilt M. (2023). Balance of Power. The Palgrave Encyclopedia of Global Security Studies. Springer International Publishing, Cham, 115–120.

20. Jervis R. (1978). Cooperation Under the Security Dilemma. World Politics, 30(2), 167–214.

21. Chính sách Quốc phòng Việt Nam. Cổng TTĐT Bộ Quốc phòng Việt Nam, <https://mod.gov.vn/vn/bai-viet/sa-qpvn/sa_qpvn_dnqp/sa-qpvn-dnqp-ctcs>.

22. Kuik C.-C. (2021). Getting hedging right: a small-state perspective. China International Strategy Review, 3.

ShareTweetShare
Bài trước

Ý nghĩa pháp lý của việc công nhận Nhà nước Palestine

  • Thịnh Hành
  • Bình Luận
  • Latest
Cuba đương đầu với những thách thức chính trị trong nước

Cuba đương đầu với những thách thức chính trị trong nước

22/06/2025
Tin đồn về sự lung lay quyền lực của Tập Cận Bình: Hiện thực hay chỉ là biểu hiện của chiến tranh nhận thức?

Tin đồn về sự lung lay quyền lực của Tập Cận Bình: Hiện thực hay chỉ là biểu hiện của chiến tranh nhận thức?

04/06/2025
Tình hình xung đột tại Myanmar sau 3 năm: Diễn biến, tác động và dự báo

Tình hình xung đột tại Myanmar sau 3 năm: Diễn biến, tác động và dự báo

30/01/2024
Châu Á – “thùng thuốc súng” của Chiến tranh thế giới thứ ba

Châu Á – “thùng thuốc súng” của Chiến tranh thế giới thứ ba

18/09/2024
Xung đột quân sự Thái Lan – Campuchia: Cuộc chiến không có người chiến thắng

Xung đột quân sự Thái Lan – Campuchia: Cuộc chiến không có người chiến thắng

27/07/2025
Tình hình Biển Đông từ đầu năm 2024 đến nay và những điều cần lưu ý

Tình hình Biển Đông từ đầu năm 2024 đến nay và những điều cần lưu ý

06/05/2024
Làn sóng biểu tình ở Indonesia: thực trạng, dự báo và vấn đề đặt ra đối với Việt Nam

Làn sóng biểu tình ở Indonesia: thực trạng, dự báo và vấn đề đặt ra đối với Việt Nam

01/09/2025
Dấu hiệu cách mạng màu trong khủng hoảng chính trị ở Bangladesh?

Dấu hiệu cách mạng màu trong khủng hoảng chính trị ở Bangladesh?

07/08/2024
Triển vọng phát triển tuyến đường thương mại biển Á – Âu qua Bắc Băng Dương

Triển vọng phát triển tuyến đường thương mại biển Á – Âu qua Bắc Băng Dương

2
Khả năng phát triển của các tổ chức an ninh tư nhân Trung Quốc trong những năm tới

Khả năng phát triển của các tổ chức an ninh tư nhân Trung Quốc trong những năm tới

2
4,5 giờ đàm phán cấp cao Mỹ – Nga: cuộc chiến tại Ukraine liệu có cơ hội kết thúc?

Những điều đáng chú ý trong cuộc đàm phán Ngoại trưởng Nga – Mỹ tại Saudi Arabia

2
Tin đồn về sự lung lay quyền lực của Tập Cận Bình: Hiện thực hay chỉ là biểu hiện của chiến tranh nhận thức?

Tin đồn về sự lung lay quyền lực của Tập Cận Bình: Hiện thực hay chỉ là biểu hiện của chiến tranh nhận thức?

2
Liệu đã đến thời điểm nghĩ tới đàm phán hòa bình với Nga và các điều khoản sẽ thế nào?

Liệu đã đến thời điểm nghĩ tới đàm phán hòa bình với Nga và các điều khoản sẽ thế nào?

1
Quan hệ Nga-Trung-Triều phát triển nhanh chóng và hệ lụy đối với chiến lược của phương Tây

Quan hệ Nga-Trung-Triều phát triển nhanh chóng và hệ lụy đối với chiến lược của phương Tây

1
Campuchia triển khai Chiến lược Ngũ giác và những hàm ý đối với Việt Nam

Campuchia triển khai Chiến lược Ngũ giác và những hàm ý đối với Việt Nam

1
Nhìn nhận về quan hệ Nga – Triều hiện nay: Vị thế của một tiểu cường sở hữu vũ khí hạt nhân

Nhìn nhận về quan hệ Nga – Triều hiện nay: Vị thế của một tiểu cường sở hữu vũ khí hạt nhân

1
Quan hệ Việt Nam – Triều Tiên trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược khu vực

Quan hệ Việt Nam – Triều Tiên trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược khu vực

07/10/2025
Ý nghĩa pháp lý của việc công nhận Nhà nước Palestine

Ý nghĩa pháp lý của việc công nhận Nhà nước Palestine

06/10/2025
Trung Á trong tương tác với các siêu cường

Trung Á trong tương tác với các siêu cường

05/10/2025
Ngoại giao khoa học kiểu Nga: Khoa học đi trước, ngoại giao theo sau

Ngoại giao khoa học kiểu Nga: Khoa học đi trước, ngoại giao theo sau

04/10/2025
Định hình năng lực Tàu sân bay CV-18 – công cụ răn đe mới của Trung Quốc trên biển và tác động với cục diện an ninh khu vực

Định hình năng lực Tàu sân bay CV-18 – công cụ răn đe mới của Trung Quốc trên biển và tác động với cục diện an ninh khu vực

03/10/2025
Sự sụp đổ của chế độ Bashar al-Assad và những thách thức trong tái cấu trúc an ninh Syria

Sự sụp đổ của chế độ Bashar al-Assad và những thách thức trong tái cấu trúc an ninh Syria

02/10/2025
Sáng kiến Quản trị Toàn cầu của Trung Quốc: Tham vọng định hình trật tự thế giới hay biểu tượng của Ngoại giao Sáng kiến?

Sáng kiến Quản trị Toàn cầu của Trung Quốc: Tham vọng định hình trật tự thế giới hay biểu tượng của Ngoại giao Sáng kiến?

01/10/2025
Thỏa thuận TikTok giữa Mỹ và Trung Quốc: Thỏa thuận mong manh và những nút thắt chưa được tháo gỡ

Thỏa thuận TikTok giữa Mỹ và Trung Quốc: Thỏa thuận mong manh và những nút thắt chưa được tháo gỡ

30/09/2025

Tin Mới

Quan hệ Việt Nam – Triều Tiên trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược khu vực

Quan hệ Việt Nam – Triều Tiên trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược khu vực

07/10/2025
324
Ý nghĩa pháp lý của việc công nhận Nhà nước Palestine

Ý nghĩa pháp lý của việc công nhận Nhà nước Palestine

06/10/2025
52
Trung Á trong tương tác với các siêu cường

Trung Á trong tương tác với các siêu cường

05/10/2025
55
Ngoại giao khoa học kiểu Nga: Khoa học đi trước, ngoại giao theo sau

Ngoại giao khoa học kiểu Nga: Khoa học đi trước, ngoại giao theo sau

04/10/2025
103

Cộng đồng nghiên cứu chiến lược và các vấn đề quốc tế.

Liên hệ

Email: [email protected]; [email protected]

Danh mục tin tức

  • Bầu cử tổng thống mỹ
  • Châu Á
  • Châu Âu
  • Châu Đại Dương
  • Châu Mỹ
  • Châu Phi
  • Chính trị
  • Chuyên gia
  • Khu vực
  • Kinh tế
  • Lĩnh vực
  • Media
  • Phân tích
  • Quốc phòng – an ninh
  • Sách
  • Sự kiện
  • Sự kiện
  • Thông báo
  • Thư viện
  • TIÊU ĐIỂM – ĐẠI HỘI ĐẢNG XX TQ
  • Xã hội
  • Ý kiến độc giả
No Result
View All Result
  • Trang Chủ
  • Lĩnh vực
    • Kinh tế
    • Xã hội
    • Quốc phòng – an ninh
    • Chính trị
  • Khu vực
    • Châu Á
    • Châu Âu
    • Châu Mỹ
    • Châu Phi
    • Châu Đại Dương
  • Phân tích
    • Ý kiến độc giả
    • Chuyên gia
  • Thư viện
    • Sách
    • Tạp chí
    • Media
  • Podcasts
  • Giới thiệu
    • Ban Biên tập
    • Dịch giả
    • Đăng ký cộng tác
    • Thông báo

© 2022 Bản quyền thuộc về nghiencuuchienluoc.org.