Nghiên Cứu Chiến Lược
  • Trang Chủ
  • Lĩnh vực
    • Kinh tế
    • Xã hội
    • Quốc phòng – an ninh
    • Chính trị
  • Khu vực
    • Châu Á
    • Châu Âu
    • Châu Mỹ
    • Châu Phi
    • Châu Đại Dương
  • Phân tích
    • Ý kiến độc giả
    • Chuyên gia
  • Thư viện
    • Sách
    • Tạp chí
    • Media
  • Podcasts
  • Giới thiệu
    • Ban Biên tập
    • Dịch giả
    • Đăng ký cộng tác
    • Thông báo
No Result
View All Result
  • Trang Chủ
  • Lĩnh vực
    • Kinh tế
    • Xã hội
    • Quốc phòng – an ninh
    • Chính trị
  • Khu vực
    • Châu Á
    • Châu Âu
    • Châu Mỹ
    • Châu Phi
    • Châu Đại Dương
  • Phân tích
    • Ý kiến độc giả
    • Chuyên gia
  • Thư viện
    • Sách
    • Tạp chí
    • Media
  • Podcasts
  • Giới thiệu
    • Ban Biên tập
    • Dịch giả
    • Đăng ký cộng tác
    • Thông báo
No Result
View All Result
Nghiên Cứu Chiến Lược
No Result
View All Result
Home Phân tích Chuyên gia

Thế tiến thoái lưỡng nan của đồng đô la Mỹ và cơ hội đổi mới trong hệ thống tiền tệ quốc tế

18/10/2025
in Chuyên gia, Kinh tế
A A
0
Thế tiến thoái lưỡng nan của đồng đô la Mỹ và cơ hội đổi mới trong hệ thống tiền tệ quốc tế
0
SHARES
10
VIEWS
Share on FacebookShare on Twitter
Bài viết này dựa trên bài phát biểu của ông Chu Tiểu Xuyên, cựu Thống đốc Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc, tại hai hội thảo kín Diễn đàn Tài chính Toàn cầu PBC của Đại học Thanh Hoa năm 2025 và Hội thảo kín lần thứ 459 của CF40 tổ chức ngày 13 tháng 7 năm 2025 với chủ đề “Cơ hội và triển vọng quốc tế hóa đồng Nhân dân tệ”.

Căng thẳng thuế quan thương mại toàn cầu và tình thế tiến thoái lưỡng nan của đồng USD

Hiện nay, thế giới đang ở trong giai đoạn cực kỳ căng thẳng của các cuộc tranh chấp thuế quan thương mại toàn cầu. Về lý thuyết, tranh chấp thương mại và thuế quan nên được phân tích từ góc độ thương mại, nhưng tác giả cho rằng như vậy là chưa đủ. Nhiều học giả cũng nhận định rằng, đằng sau những tranh chấp thương mại ấy có sự liên hệ mật thiết với tiền tệ, và đương nhiên là cả hệ thống tiền tệ quốc tế. Sự liên kết này thường được thể hiện qua hai kênh chính:

Kênh thứ nhất là mối liên hệ thông qua tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán quốc tế truyền thống. Đối với các quốc gia quy mô vừa và nhỏ, tỷ giá hối đoái là công cụ hiệu quả để cân bằng cán cân thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, đối với các nền kinh tế lớn, đặc biệt là những nước phát hành đồng tiền dự trữ, việc hình thành và tác động của tỷ giá hối đoái thường bị hạn chế. Lấy Mỹ làm ví dụ, các vấn đề mà nước này quan tâm như thâm hụt cán cân thanh toán, sự dịch chuyển của các ngành công nghiệp hay hiện tượng phi công nghiệp hóa trong lĩnh vực sản xuất đều không thể được giải quyết triệt để thông qua điều chỉnh tỷ giá. Một số quan chức cấp cao trong chính quyền Trump từng đề cập rằng họ kỳ vọngsử dụng các công cụ tiền tệ để tăng cường năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh xuất khẩu của Mỹ, nói cách khác là duy trì đồng USD ở mức tỷ giá thấp hơn. Do đó, khi bàn đến chiến tranh thuế quan hay tranh chấp thương mại, việc liên hệ đến yếu tố tiền tệ là điều không thể tránh khỏi.

Kênh thứ hai liên quan đến tỷ lệ tiết kiệm và hiệu ứng lan tỏa tiền tệ. Cách phân tích này cho rằng sự mất cân đối trong thương mại toàn cầu có liên quan đến tỷ lệ tiết kiệm trong nước quá cao ở châu Á, đặc biệt là Trung Quốc, dẫn đến thặng dư thương mại lớn và dòng vốn đầu tư, cho vay ra nước ngoài dồi dào. Nguồn tiết kiệm quá mức này chủ yếu được tính bằng đồng nội tệ, nhưng thông qua cơ chế chuyển đổi của hệ thống tiền tệ quốc tế, chúng được chuyển hóa thành các hoạt động kinh tế đối ngoại như thương mại, đầu tư và cho vay.

Trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) khi đó là ông Ben Bernanke đã phân tích nguyên nhân xảy ra khủng hoảng tín dụng dưới chuẩn ở Mỹ từ góc độ dư thừa tiết kiệm. Ông cho rằng tỷ lệ tiết kiệm quá cao ở các nước châu Á, bao gồm Trung Quốc, đã khiến một lượng lớn vốn tiết kiệm đổ vào thị trường Mỹ thông qua đồng USD, làm giảm lãi suất trong nước và tỷ lệ tiết kiệm của các hộ gia đình Mỹ. Mặc dù người dân Mỹ có xu hướng tiêu dùng cao, dẫn đến thâm hụt tài khoản vãng lai trong cán cân thanh toán quốc tế, nhưng dòng vốn chảy vào đã khiến đồng USD vẫn duy trì ở mức giá trị cao. Việc kênh vốn này có gây ra bất công cho nước Mỹ hay không có lẽ cần được thảo luận trong một diễn đàn khác.

Chính vì tồn tại hai kênh liên hệ trên, việc quan sát cơ cấu ngành công nghiệp toàn cầu và các cuộc tranh chấp thuế quan thương mại không thể tách rời khỏi yếu tố tiền tệ. Tất nhiên, xét về mặt chiến lược đàm phán, có thể trực tiếp đưa vấn đề tiền tệ vào chương trình nghị sự, hoặc cũng có thể lảng tránh đề tài này. Nhưng xét về bản chất, những tranh chấp thuế quan thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ cũng như giữa Mỹ với các nền kinh tế lớn khác, yếu tố tiền tệ luôn là nhân tố cốt lõi ẩn sau.

Từ góc nhìn của Mỹ, nước này hiện đang phải đối mặt với những lựa chọn khó khăn và thách thức nan giải. Một mặt, Washington muốn duy trì tỷ giá đồng USD ở mức cạnh tranh để thúc đẩy tái thiết lập chuỗi sản xuất trong nước và cải thiện cán cân thương mại, vừa muốn giảm bớt gánh nặng trách nhiệm quốc tế của đồng USD, đồng thời vẫn muốn tiếp tục sử dụng đồng tiền này như một công cụ trừng phạt trong các vấn đề địa chính trị. Mặt khác, Mỹ lại mong duy trì vị thế thống trị toàn cầu của đồng USD với tư cách là đồng tiền dự trữ quốc tế, không chỉ trong thanh toán thương mại quốc tế, mà còn trong giao dịch trên các thị trường tài chính toàn cầu.

Vì vậy, trên thực tế Mỹ đang rơi vào thế “tiến thoái lưỡng nan” trong vấn đề đồng USD. Một mặt Washington mong muốn đồng USD yếu hơn về giá trị và tỷ giá, thu hẹp phạm vi ảnh hưởng và giảm bớt phạm vi chi phối. Nhưng mặt khác lại muốn duy trì chi phí vay nợ thấp, giữ vững vị thế thống trị của đồng USD trong hệ thống tiền tệ quốc tế, bao gồm cả việc sử dụng đồng tiền này làm công cụ trừng phạt khi cần thiết. Điều này phản ánh rõ phong cách “vừa muốn cái này, vừa muốn cái kia” của một số chính trị gia Mỹ trong cuộc chiến thương mại và thuế quan hiện nay. Tuy nhiên, nhiều phân tích đã chỉ ra rằng việc đạt được cả hai mục tiêu trong “tình thế tiến thoái lưỡng nan” nói trên của đồng USD là điều gần như không thể. Trên bàn cờ tiền tệ quốc tế, Mỹ buộc phải chấp nhận được – mất, và có thể sẽ phải nhường bớt một phần vị thế thống trị toàn cầu của đồng USD.

Theo quan sát, việc đồng USD đạt được cả hai mục tiêu này không phải hoàn toàn bất khả thi. Khi nào điều đó có thể xảy ra? Đó là khi trên thế giới không có đồng tiền nào đủ thách thức vị trí của USD. Dù đồng USD có xu hướng suy yếu, phạm vi ảnh hưởng thu hẹp, và thường xuyên bị lạm dụng làm công cụ trừng phạt, nhưng nếu không có đồng tiền nào khác dám thách thức, Mỹ vẫn có thể thu về cả hai lợi ích. Vậy vấn đề mấu chốt nằm ở chỗ: trong hệ thống tiền tệ quốc tế, liệu có đồng tiền nào dám và đủ năng lực thách thức hiện trạng? Không nhất thiết phải là thách thức công khai, mà là tìm kiếm cơ hội thay thế dần vị trí của USD trong các lĩnh vực ứng dụng thực tế? Nếu có, hệ thống tiền tệ quốc tế rất có thể sẽ mở ra một cục diện mới.

Bốn loại tiền tệ có tiềm năng thách thức vị thế của đồng USD

Vậy ai có thể bước lên để lấp vào khoảng trống mà đồng USD buộc phải nhường lại? Về cơ bản có bốn lựa chọn khả thi.

Trước hết hãy nói về đồng Euro. Đây là đồng tiền lớn thứ hai trong rổ tiền tệ Quyền rút vốn đặc biệt (SDR), chỉ đứng sau đồng USD, và Liên minh châu Âu (EU)/Khu vực đồng Euro là nền kinh tế phát triển với đầy đủ tiềm lực kinh tế. Tuy nhiên, đồng Euro cũng tồn tại những vấn đề riêng, chủ yếu là mối quan hệ tương tác trong tương lai giữa EU và Khu vực đồng Euro vẫn cần được xác định rõ ràng hơn. Hơn nữa, các chức năng liên quan của Ngân hàng Trung ương Châu Âu dường như bị hạn chế nhất định khi chưa được trao đủ thẩm quyền cần thiết. Ngoài ra, một đồng tiền dự trữ quốc tế tất yếu phải gắn với chính sách tài khóa tương ứng, nhưng đồng Euro lại chưa có chủ thể tài khóa tương ứng để phát hành các công cụ nợ. Sự hội nhập thị trường vốn hiện tại trong khu vực đồng Euro vẫn chưa thấy một giải pháp rõ ràng. Trong bối cảnh đó, để có thể lấp đầy vị trí của USD, đồng Euro rõ ràng cần phải củng cố nội lực vững chắc hơn nữa.

Lựa chọn khả thi thứ hai là đồng Nhân dân tệ. Ban đầu, Nhân dân tệ không có ý định đóng vai trò quan trọng trong hệ thống tiền tệ quốc tế, bởi xét cho cùng Trung Quốc vẫn là một quốc gia đang phát triển và trước đây không phải là cường quốc về tài chính. Do đó, hơn một thập kỷ trước, Trung Quốc luôn chủ trương thúc đẩy việc sử dụng Nhân dân tệ trong thương mại xuyên biên giới và đầu tư một cách từng bước. Đồng thời tôn trọng sự lựa chọn tự nguyện của các thành viên thị trường, không áp đặt hay cưỡng ép việc quốc tế hóa đồng tiền này.

Sau khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 bùng nổ, do Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) khi đó chỉ tập trung thực hiện các thỏa thuận hoán đổi tiền tệ với các nền kinh tế phát triển như châu Âu, Nhật Bản. Trong khi đó, một số quốc gia châu Á như Hàn Quốc, Malaysia khi đối mặt với tình trạng thiếu thanh khoản ngoại hối đã chuyển hướng tìm kiếm sự hỗ trợ từ Trung Quốc. Chính trong bối cảnh đó, Trung Quốc bắt đầu thúc đẩy các thỏa thuận hoán đổi nội tệ, với những thỏa thuận đầu tiên được ký kết giữa đồng Nhân dân tệ và đồng Won của Hàn Quốc, đồng Ringgit của Malaysia. Kể từ đây, quá trình quốc tế hóa Nhân dân tệ được đẩy mạnh. Tuy nhiên Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc vẫn duy trì quan điểm điều hành thận trọng, bởi xuất phát từ nhận thức rằng Trung Quốc không thiếu USD và cũng không muốn thay thế vị thế của đồng USD, động thái khi ấy chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu thực tế của thị trường.

Mãi đến năm 2014, quá trình quốc tế hóa đồng Nhân dân tệ lần đầu tiên được chính thức đề cập. Đến năm 2016, đồng Nhân dân tệ đã chính thức được đưa vào rổ Quyền rút vốn đặc biệt (SDR) của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), trở thành một trong năm đồng tiền chủ chốt của thế giới gồm USD, Euro, Nhân dân tệ, bảng Anh và yên Nhật. Trong suốt quá trình này, đồng Nhân dân tệ tiến từng bước một, dù không phải lúc nào cũng thuận lợi, nhưng vẫn đạt được nhiều thành quả đáng ghi nhận. Chẳng hạn như vị trí thứ hai toàn cầu về tài trợ thương mại và thứ ba về thanh toán thương mại quốc tế. Tuy nhiên, nhìn một cách khách quan, tiến độ tổng thể vẫn còn tương đối chậm, thể hiện qua việc chỉ xếp thứ sáu về tỷ trọng trong các giao dịch tài chính toàn cầu và dự trữ ngoại hối quốc tế.

Nếu Mỹ tiếp tục các chính sách bảo hộ rõ rệt trong thương mại và thuế quan,thì đồng Nhân dân tệ sẽ có cơ hội phát huy vai trò lớn hơn. Xu hướng đa dạng hóa hệ thống tiền tệ này cũng là động lực cho sự chuyển đổi của hệ thống tiền tệ quốc tế. Tất nhiên, điều này đòi hỏi Trung Quốc phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách và mở cửa, đặc biệt là trong lĩnh vực cải cách tiền tệ, cần có những bước đi táo bạo hơn, bao gồm cả việc thúc đẩy hơn nữa khả năng chuyển đổi của các tài khoản vốn. Và theo IMF, mức độ sử dụng tự do đồng nhân dân tệ phải được cải thiện, giảm bớt các biện pháp kiểm soát không cần thiết. Bên cạnh đó, Tổng Bí thư Tập Cận Bình cũng đã nhấn mạnh việc đẩy nhanh xây dựng một cường quốc tài chính, trong đó “sở hữu một đồng tiền mạnh” được xác định là một trong sáu yếu tố cốt lõi để đạt mục tiêu trở thành cường quốc tài chính.

Đối với Trung Quốc mà nói, đồng Nhân dân tệ cũng sẽ trở thành một “lá bài” trong ván cờ chiến lược quốc tế. Nói cách khác, nếu Mỹ tung ra “lá bài thuế quan”, thì Trung Quốc có thể đáp trả bằng nhiều “lá bài” khác nhau. Một trong số đó chính là “lá bài Nhân dân tệ”.

Vậy khi Trung Quốc chơi “lá bài Nhân dân tệ”, điều đáng lo ngại nhất là gì? Có lẽ mối quan tâm chủ yếu vẫn là nguy cơ dòng vốn chảy ra nước ngoài. Nhìn lại lịch sử, tình trạng tháo chạy dòng vốn của Trung Quốc thường mang tính chu kỳ, có giai đoạn nghiêm trọng, nhưng có lúc lại không đáng kể. Trong cuộc cạnh tranh địa chính trị toàn cầu hiện nay, việc Trung Quốc có dám để đồng Nhân dân tệ phát huy vai trò lớn hơn hay không phần lớn phụ thuộc vào khung phân tích của chính họ. Cũng có nghĩa là, cùng một hiện tượng, nhưng nếu nhìn từ các góc độ khác nhau, ta sẽ có những đánh giá khác nhau. Có người cho rằng đó là cơ hội lớn, nhưng cũng có người lại coi đó là rủi ro đáng lo ngại.

Từ trước đến nay, tình hình trên thực tế vẫn luôn diễn ra như vậy. Trong quá khứ, khi thực hiện những bước đi quan trọng trong tiến trình mở cửa, cải cách tỷ giá hối đoái và cải cách ngoại hối, chẳng hạn như cải cách tỷ giá những năm 1990 hay khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), các cải cách liên quan đến tỷ giá, khả năng chuyển đổi, kiểm soát ngoại hối… thường nhận được những đánh giá trái chiều. Do đó, thông qua tăng cường nghiên cứu thảo luận và chú trọng tiếp thu bài học từ cả trong nước lẫn ngoài nước sẽ giúp Trung Quốc xây dựng khung phân tích rõ ràng hơn. Từ đó từng bước thu hẹp bất đồng để đạt được đồng thuận chung, đồng thời tạo ra những lựa chọn tối ưu trong cuộc cạnh tranh địa chính trị toàn cầu hiện nay.

SDR là một lựa chọn khả thi. Nếu cả bốn đồng tiền còn lại trong rổ tiền tệ SDR đều không đủ điều kiện để “đơn phương thách thức” vị thế của đồng USD, liệu có thể xem xét sử dụng một rổ tiền tệ tổng hợp, tức là để SDR phát huy vai trò lớn hơn, thay thế USD ở một mức độ nhất định? Việc mở rộng vai trò của SDR phù hợp với chủ trương đa phương hóa mà Trung Quốc luôn ủng hộ, đồng thời phản ánh xu thế tất yếu của thế giới đa cực. Xét cho cùng, thế giới vốn dĩ không phải đơn cực mà là đa cực, thì hệ thống tiền tệ quốc tế cũng cần đa dạng hóa. Cách tiếp cận này thực tế sẽ mang lại tính an toàn cao hơn, ổn định hơn và khả năng chống chịu tốt hơn trước các tác động. Bởi ngay cả khi một hoặc nhiều đồng tiền trong rổ biến động, thì xét trên tổng thể rổ tiền tệ, mức độ biến động chắc chắn sẽ ở phạm vi hẹp hơn.

Có người sẽ cho rằng SDR hiện nay thực chất không phải là một loại tiền tệ, mà chỉ là một đơn vị hạch toán. Bởi lẽ, một đồng tiền thật sự cần có tổ chức phát hành, trong khi SDR không có tổ chức phát hành tương ứng, còn IMF thì chưa bao giờ đóng vai trò như một ngân hàng trung ương quốc tế. Lập luận này nghe có vẻ hợp lý, nhưng vấn đề là ở chỗ: mọi thứ đều do con người quyết định. Nếu không dám thử nghiệm thay đổi, SDR sẽ mãi mãi chỉ là đơn vị hạch toán chứ không thể trở thành tiền tệ, IMF cũng sẽ không bao giờ có được chức năng của ngân hàng trung ương. Nhưng nếu biết nắm bắt thời cơ và tiến hành cải cách phù hợp với thời đại, thì tình hình hoàn toàn có thể thay đổi.

Xét từ góc độ thời cơ, bất kỳ sự thay đổi nào của hệ thống tiền tệ quốc tế đều cần có thời điểm phù hợp. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, bắt nguồn từ khủng hoảng cho vay thế chấp dưới chuẩn tại Mỹ, từng là một cơ hội rất tốt để tiến hành cải cách hệ thống tiền tệ quốc tế. Nhưng khi đó thái độ của Washington không rõ ràng khiến việc thúc đẩy cải cách trở nên khó khăn. Hiện tại, khi đồng USD đang rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan, thế giới cần thận trọng đánh giá, liệu đây có phải thời cơ mới để thách thức hệ thống hiện hành hay không? Liệu Mỹ sẽ tiếp tục duy trì vai trò của đồng USD vượt xa quy mô kinh tế và tầm ảnh hưởng quốc gia của họ, hay sẽ chấp nhận để đồng tiền này dần thu hẹp phạm vi ảnh hưởng?

Bên cạnh đó, cần nhấn mạnh rằng ngay cả trong vai trò là đơn vị hạch toán hay đơn vị đo lường, SDR vẫn sở hữu tầm quan trọng đáng kể. Ví dụ, đồng tiền dự trữ quốc tế cần duy trì sự ổn định, nếu lấy đồng USD làm chuẩn mực tham chiếu 100%, thì mọi biến động tỷ giá đều sẽ chỉ thể hiện dưới góc độ dao động của các ngoại tệ khác so với USD, trong khi trên thực tế, biến động này có thể đến từ chính đồng đô la Mỹ. Một khi đồng USD chao đảo hoặc điều chỉnh mạnh, nếu không thay đổi đơn vị hạch toán hoặc hệ quy chiếu, thì những hiện tượng này sẽ vẫn bị quy kết là do các loại tiền tệ khác bất ổn. Do đó, đây thực chất là mối quan hệ mang tính tương đối.

Ngoài biến động tỷ giá, ngành tài chính và các thị trường tài chính hiện nay còn tồn tại rất nhiều công cụ quản lý rủi ro, phần lớn trong số đó được thực hiện thông qua các công cụ phái sinh và hầu hết đều lấy đồng USD làm chuẩn mực. Một khi chuẩn mực USD này xuất hiện vấn đề hoặc sai lệch, toàn bộ quá trình quản lý rủi ro từ định lượng đến hành vi vận hành thực tế đều sẽ phát sinh sai lệch.

Ngoài ra, vấn đề về bảng cân đối kế toán cũng cần được đặc biệt lưu ý. Các tổ chức tài chính hoạt động quốc tế thường sử dụng đồng USD làm đơn vị định giá chủ yếu trong báo cáo tài chính của mình. Mọi giao dịch bằng các đồng tiền khác cuối cùng đều phải quy đổi về USD để hạch toán, và chính quá trình quy đổi này đã tạo ra những biến dạng và sai lệch đáng kể.

Vì vậy, hệ thống tiền tệ quốc tế hiện tại đang mở ra cơ hội để SDR đảm nhận vai trò rộng lớn hơn và phát huy tầm ảnh hưởng sâu rộng hơn. Tuy nhiên, tiến trình này trước hết phụ thuộc vào nhận thức của giới chức Mỹ về vị thế đồng USD, đồng thời cũng phụ thuộc vào việc các nước khác có thể nắm bắt cơ hội để đạt được đồng thuận hay không. Đây chính là vấn đề cần được giới chuyên môn cùng nhau mổ xẻ và thảo luận sâu rộng.

Khả năng thứ tư, cũng là chủ đề đang được thảo luận sôi nổi hiện nay, chính là tiền kỹ thuật số. Xét theo lộ trình phát triển, tiền mã hóa hoặc tiền kỹ thuật số thường được phân thành tài sản kỹ thuật số và stablecoin. Trong đó tài sản mã hóa thường không được công nhận có đầy đủ chức năng tiền tệ, trong khi stablecoin được xem như công cụ tương đương tiền tệ.

Tuy nhiên, việc một đồng stablecoin cụ thể có thực sự ổn định hay không không nên do chính bên phát hành tự khẳng định, và hiện nay vẫn còn nhiều tranh luận về vấn đề này. Ngay cả khi stablecoin thực sự đạt được tính ổn định, thì việc coi nó như một thành viên của hệ thống tiền tệ quốc tế để thay thế một phần vai trò của đồng USD vẫn là điều chưa đủ sức nặng. Bởi trước hết, stablecoin phải khẳng định được vị thế trong lĩnh vực thanh toán, chứng minh được tính tiện lợi trong giao dịch. Hơn nữa, do stablecoin không phải là một đồng tiền độc lập, nên nó phải “neo bám” vào một loại tiền tệ khác, chẳng hạn như đồng USD. Chính đặc tính này khiến stablecoin vô tình trở thành công cụ mở rộng địa bàn ảnh hưởng của USD thay vì thay thế nó. Trong khi đó, xu hướng “đô la hóa” trên diện rộng đang vấp phải nhiều chỉ trích và là điều mà nhiều quốc gia đang nỗ lực tránh né.

Do đó, việc thúc đẩy cải cách hệ thống tiền tệ quốc tế và tăng cường vai trò của các đồng tiền khác nhằm thay thế một phần chức năng của đồng USD phụ thuộc chủ yếu vào việc liệu các bên có đạt được đồng thuận, có nắm bắt được thời cơ và động lực để tiến hành cải cách hay không, bao gồm cả việc Mỹ tự cân nhắc giữa lợi ích và thiệt hại của mình trong vấn đề này. Nếu các bên đều thiếu động lực hành động, thế giới có khả năng chứng kiến việc Mỹ có thể đạt được mục tiêu “vừa muốn cái này, vừa muốn cái kia” trong tình thế tiến thoái lưỡng nan của đồng USD.

Trở thành đồng tiền dự trữ quốc tế có cần những điều kiện tiên quyết nào không?

Cuối cùng, nếu các loại tiền tệ khác, bao gồm cả SDR, nếu muốn phát huy vai trò lớn hơn trong hệ thống tiền tệ quốc tế, căn cứ theo các phân tích hiện nay, liệu những hạn chế về điều kiện có thực sự tạo thành rào cản?

Vấn đề thứ nhất liên quan đến thâm hụt thương mại quy mô lớn như điều kiện tiên quyết để phát hành tiền tệ ra nước ngoài. Một số phân tích cho rằng một quốc gia muốn đưa đồng tiền của mình ra nước ngoài phải duy trì thâm hụt thương mại lớn trong cán cân thanh toán – tức nhập siêu ở quy mô đáng kể – thì mới có thể đưa nội tệ đến tay người dùng quốc tế. Quan điểm này thường được dùng để cho rằng đồng Nhân dân tệ khó có thể quốc tế hóa. Theo logic này, với thặng dư thương mại khổng lồ của Trung Quốc, ngay cả thanh toán bằng Nhân dân tệ, thì khi các nước khác mua hàng hóa Trung Quốc, lượng Nhân dân tệ đó lại nhanh chóng quay trở lại trong nước, nên lượng lưu thông của Nhân dân tệ ở nước ngoài không lớn. Tuy nhiên, nếu xuất khẩu đồng tiền của chính mình thông qua thâm hụt thương mại lớn như Mỹ thì lại gây tổn hại cho nền kinh tế trong nước, đặc biệt là ngành sản xuất và việc làm. Đây chính là thực trạng mà nước Mỹ đang trăn trở tìm lối thoát. Do đó, đây thực chất là một nghịch lý nan giải.

Thực tế liệu có thực sự là bế tắc? Nếu phân tích cán cân thanh toán quốc tế của Trung Quốc, dù quá trình quốc tế hóa Nhân dân tệ mới chỉ ở giai đoạn đầu, nhưng tài khoản chính đã ghi nhận dòng chảy ngoại tệ đáng kể ra nước ngoài, tức thông qua các kênh đầu tư, tín dụng và giao dịch thị trường tài chính. Đây chính là cơ chế giúp Trung Quốc chủ động đưa Nhân dân tệ vượt biên giới. Nói cách khác, tỷ lệ tiết kiệm trong nước của Trung Quốc quá cao, tất yếu sẽ dẫn đến một phần đáng kể nguồn vốn này cần được luân chuyển ra nước ngoài đầu tư.

Một kênh khác để xuất khẩu đồng Nhân dân tệ chính là hoán đổi tiền tệ giữa các ngân hàng trung ương. Trung Quốc đã thiết lập các thỏa thuận hoán đổi tiền tệ song phương với nhiều nền kinh tế mới nổi cũng như một số nước phát triển. Về lý thuyết, hoán đổi tiền tệ là một cơ chế hai chiều, nhưng trên thực tế, dòng chảy thường nghiêng về một phía, tùy thuộc vào bên nào cần thanh khoản ngoại hối và bên nào có khả năng cung cấp.

Thông thường, những quốc gia có tỷ lệ tiết kiệm cao hơn mức đầu tư trong nước sẽ trở thành “nước xuất khẩu vốn” và Trung Quốc là minh chứng điển hình. Tuy nhiên, các nền kinh tế dù có tỷ lệ tiết kiệm thấp nhưng sở hữu đặc quyền phát hành đồng tiền dự trữ quốc tế cũng sở hữu năng lực tương tự, chẳng hạn như Mỹ. Họ không cần dự trữ ngoại hối đồ sộ, bởi đặc quyền in tiền của Cục Dự trữ Liên bang đã tự động biến USD thành tài sản dự trữ toàn cầu, do đó cũng có năng lực thực hiện hoán đổi tiền tệ ra bên ngoài.

Tóm lại, không hẳn một quốc gia có thặng dư thương mại sẽ không có lối thoát để đưa đồng nội tệ của mình vượt biên giới và được các nước khác chấp nhận sử dụng.

Vấn đề thứ hai liên quan đến khả năng cung cấp tài sản an toàn ổn định. Một số phân tích cho rằng bất kỳ đồng tiền nào, kể cả SDR muốn đảm nhận vai trò tiền tệ dự trữ đều phải cung ứng được các tài sản trú ẩn an toàn ổn định. Nhận định này nghe có vẻ rất hợp lý. Trên thực tế, trái phiếu chính phủ Mỹ hiện vẫn được xem là tài sản an toàn ổn định bậc nhất toàn cầu, trong khi Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF hiện chưa phát hành các tài sản nợ định giá bằng SDR. Tuy nhiên, cách phân tích này vẫn còn nhiều điểm cần tranh luận.

Xét từ góc độ bảng cân đối kế toán của ngân hàng trung ương, việc phát hành tiền thực chất là một khoản nợ phải trả chứ không phải tài sản sở hữu. Ngân hàng trung ương phải thông qua các cơ chế bảo đảm thể chế, cam kết tín dụng và hậu thuẫn tài chính để duy trì sức mua danh nghĩa của đồng tiền do mình phát hành. Sức mua chính là kênh phân tích quan trọng, yếu tố then chốt đánh giá khả năng người giữ tiền có thể chuyển đổi thành hàng hóa hữu hình bất cứ lúc nào. Đây cũng chính là điều kiện tiên quyết để một loại tiền tệ được thế giới chấp nhận nắm giữ. Với nhân dân tệ, sức mua này được củng cố vững chắc nhờ vị thế “công xưởng toàn cầu” của Trung Quốc. Ngay cả những mặt hàng không do Trung Quốc trực tiếp sản xuất, thì cũng có thể thực hiện thông qua thương mại tái xuất nhờ năng lực thương nhân và mạng lưới thương mại toàn cầu của nước này.

Tất nhiên, hiện nay đồng Nhân dân tệ chủ yếu được sử dụng trong thanh toán thương mại nhưng chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong dự trữ ngoại hối. Người mua nước ngoài thường chỉ đổi sang Nhân dân tệ ngay trước khi thanh toán để hoàn tất giao dịch, chứ không nắm giữ lâu dài. Điều này cho thấy rằng, với tư cách là một loại tài sản an toàn và ổn định, Nhân dân tệ vẫn còn một số hạn chế nhất định, và điều đó sẽ ảnh hưởng đến quyết định nắm giữ của các chủ thể nước ngoài.

Tóm lại, sức hấp dẫn và khả năng bảo toàn giá trị của một đồng tiền dự trữ chịu tác động đồng thời từ ba khía cạnh:

Thứ nhất, xét từ góc độ thanh toán, xem khả năng được chấp nhận rộng rãi trong giao dịch mua bán hay không.

Thứ hai, từ góc độ nắm giữ và đầu tư, xem liệu đồng tiền đó có gắn liền với các tài sản tài chính hoặc tài sản vật chất an toàn hay không.

Thứ ba, từ góc độ giao dịch tài chính, xem mức độ phổ biến trong các giao dịch tài chính toàn cầu.

Nói tóm lại, việc đồng tiền dự trữ phải đại diện cho các tài sản an toàn ổn định là vô cùng quan trọng, nhưng không nên định nghĩa khái niệm này một cách quá đơn giản.

Vấn đề thứ ba liên quan đến nhu cầu thực tế của thế giới về tiền tệ dự trữ. Nói cách khác, nếu một đồng tiền nào đó bao gồm cả SDR muốn thay thế vai trò hiện tại của đồng USD, thì quy mô cần đạt được sẽ là bao nhiêu? Tất nhiên, xét từ quy mô của đồng đô la Mỹ, có thể nhìn nhận từ hai góc độ khác nhau:

Góc nhìn thứ nhất: Quy mô khổng lồ của thị trường trái phiếu chính phủ Mỹ toàn cầu hiện đang đạt mức 36 nghìn tỷ USD. Từ đây nảy sinh một tranh luận quan trọng: lượng trái phiếu chính phủ Mỹ trên thị trường thực chất phản ánh thâm hụt ngân sách kéo dài của Mỹ hơn là nhu cầu tiền tệ dự trữ toàn cầu thực sự. Trong tổng khối lượng tài sản USD, phần đáp ứng nhu cầu dự trữ quốc tế thực tế chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ. Nhu cầu này chủ yếu xuất phát từ hai yếu tố: đảm bảo thanh toán thương mại quốc tế và thực hiện nghĩa vụ trả nợ quốc tế. Do đó, không nên lấy lượng tài sản bằng USD do nước ngoài nắm giữ để tính ngược lại quy mô cần thiết của đồng tiền dự trữ. Sự phình to của khối lượng tài sản USD toàn cầu hiện nay chủ yếu phản ánh hiện tượng tích lũy nợ công từ chính sách thâm hụt ngân sách của Mỹ, chứ không thể hiện nhu cầu dự trữ tiền tệ thực tế.

Ông Thẩm Liên Thao từng công bố một nhóm dữ liệu đáng chú ý trên tạp chí Tài Tân năm 2007, thời điểm ngay trước khi khủng hoảng tài chính toàn cầu bùng nổ, tổng tài sản USD ở nước ngoài là 1,2 nghìn tỷ USD. Đến năm 2024, con số này đã tăng vọt lên 26,2 nghìn tỷ USD, một mức tăng trưởng kinh ngạc. Do đó, nếu một đồng tiền muốn đảm nhận vai trò tiền tệ dự trữ, cần làm rõ một vấn đề then chốt liệu Trung Quốc đang muốn thay thế khối lượng hơn 20 nghìn tỷ USD kia, hay chỉ nhắm đến đáp ứng nhu cầu dự trữ thực chất vốn có? Có lẽ, thế giới không nhất thiết phải có một khối lượng dự trữ ngoại tệ khổng lồ, mà điều quan trọng hơn là đảm bảo sự phù hợp với mục tiêu cốt lõi ban đầu của đồng tiền dự trữ.

Tóm lại, hệ thống tiền tệ quốc tế đang không ngừng phát triển với nhiều tác nhân thúc đẩy, đồng thời cũng mở ra những cơ hội mới. Việc nhận diện, phân tích, đánh giá được lợi, hại và đưa ra lựa chọn phù hợp phụ thuộc phần lớn vào khung phân tích mà Trung Quốc cũng như các bên khác áp dụng để nghiên cứu vấn đề./.

Biên dịch: Nguyễn Phượng

Tác giả: Chu Tiểu Xuyên là Cựu Thống đốc Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc.

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, chỉ mang tính chất tham khảo, không nhất thiết phản ánh quan điểm của Nghiên cứu Chiến lược, mọi trao đổi học thuật và các vấn đề khác, quý độc giả có thể liên hệ với ban biên tập qua địa chỉ mail: [email protected]
ShareTweetShare
Bài trước

Mỹ có thực sự muốn chiến tranh ở Biển Đông?

  • Thịnh Hành
  • Bình Luận
  • Latest
Cuba đương đầu với những thách thức chính trị trong nước

Cuba đương đầu với những thách thức chính trị trong nước

22/06/2025
Tin đồn về sự lung lay quyền lực của Tập Cận Bình: Hiện thực hay chỉ là biểu hiện của chiến tranh nhận thức?

Tin đồn về sự lung lay quyền lực của Tập Cận Bình: Hiện thực hay chỉ là biểu hiện của chiến tranh nhận thức?

04/06/2025
Tình hình xung đột tại Myanmar sau 3 năm: Diễn biến, tác động và dự báo

Tình hình xung đột tại Myanmar sau 3 năm: Diễn biến, tác động và dự báo

30/01/2024
Châu Á – “thùng thuốc súng” của Chiến tranh thế giới thứ ba

Châu Á – “thùng thuốc súng” của Chiến tranh thế giới thứ ba

18/09/2024
Xung đột quân sự Thái Lan – Campuchia: Cuộc chiến không có người chiến thắng

Xung đột quân sự Thái Lan – Campuchia: Cuộc chiến không có người chiến thắng

27/07/2025
Tình hình Biển Đông từ đầu năm 2024 đến nay và những điều cần lưu ý

Tình hình Biển Đông từ đầu năm 2024 đến nay và những điều cần lưu ý

06/05/2024
Làn sóng biểu tình ở Indonesia: thực trạng, dự báo và vấn đề đặt ra đối với Việt Nam

Làn sóng biểu tình ở Indonesia: thực trạng, dự báo và vấn đề đặt ra đối với Việt Nam

01/09/2025
Dấu hiệu cách mạng màu trong khủng hoảng chính trị ở Bangladesh?

Dấu hiệu cách mạng màu trong khủng hoảng chính trị ở Bangladesh?

07/08/2024
Triển vọng phát triển tuyến đường thương mại biển Á – Âu qua Bắc Băng Dương

Triển vọng phát triển tuyến đường thương mại biển Á – Âu qua Bắc Băng Dương

2
Khả năng phát triển của các tổ chức an ninh tư nhân Trung Quốc trong những năm tới

Khả năng phát triển của các tổ chức an ninh tư nhân Trung Quốc trong những năm tới

2
4,5 giờ đàm phán cấp cao Mỹ – Nga: cuộc chiến tại Ukraine liệu có cơ hội kết thúc?

Những điều đáng chú ý trong cuộc đàm phán Ngoại trưởng Nga – Mỹ tại Saudi Arabia

2
Tin đồn về sự lung lay quyền lực của Tập Cận Bình: Hiện thực hay chỉ là biểu hiện của chiến tranh nhận thức?

Tin đồn về sự lung lay quyền lực của Tập Cận Bình: Hiện thực hay chỉ là biểu hiện của chiến tranh nhận thức?

2
Liệu đã đến thời điểm nghĩ tới đàm phán hòa bình với Nga và các điều khoản sẽ thế nào?

Liệu đã đến thời điểm nghĩ tới đàm phán hòa bình với Nga và các điều khoản sẽ thế nào?

1
Quan hệ Nga-Trung-Triều phát triển nhanh chóng và hệ lụy đối với chiến lược của phương Tây

Quan hệ Nga-Trung-Triều phát triển nhanh chóng và hệ lụy đối với chiến lược của phương Tây

1
Campuchia triển khai Chiến lược Ngũ giác và những hàm ý đối với Việt Nam

Campuchia triển khai Chiến lược Ngũ giác và những hàm ý đối với Việt Nam

1
Nhìn nhận về quan hệ Nga – Triều hiện nay: Vị thế của một tiểu cường sở hữu vũ khí hạt nhân

Nhìn nhận về quan hệ Nga – Triều hiện nay: Vị thế của một tiểu cường sở hữu vũ khí hạt nhân

1
Thế tiến thoái lưỡng nan của đồng đô la Mỹ và cơ hội đổi mới trong hệ thống tiền tệ quốc tế

Thế tiến thoái lưỡng nan của đồng đô la Mỹ và cơ hội đổi mới trong hệ thống tiền tệ quốc tế

18/10/2025
Mỹ có thực sự muốn chiến tranh ở Biển Đông?

Mỹ có thực sự muốn chiến tranh ở Biển Đông?

17/10/2025
Các xu hướng chính trong phát triển lực lượng tên lửa hạt nhân của Trung Quốc

Các xu hướng chính trong phát triển lực lượng tên lửa hạt nhân của Trung Quốc

16/10/2025
Nghịch lý “thừa thầy, thiếu thợ” tại Trung Quốc: Bài học cho chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam

Nghịch lý “thừa thầy, thiếu thợ” tại Trung Quốc: Bài học cho chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam

14/10/2025
Trừng phạt và chống trừng phạt: Cách tiếp cận đối ứng của Mỹ và Trung Quốc

Trừng phạt và chống trừng phạt: Cách tiếp cận đối ứng của Mỹ và Trung Quốc

13/10/2025
An ninh phía Tây của Trung Quốc dưới thời Tập Cận Bình

An ninh phía Tây của Trung Quốc dưới thời Tập Cận Bình

12/10/2025
Thỏa thuận ngừng bắn ở Gaza: Đột phá hay bình minh giả tạo?

Thỏa thuận ngừng bắn ở Gaza: Đột phá hay bình minh giả tạo?

11/10/2025
Xung đột làm trầm trọng thêm khủng hoảng nhân đạo ở Gaza

Xung đột làm trầm trọng thêm khủng hoảng nhân đạo ở Gaza

09/10/2025

Tin Mới

Thế tiến thoái lưỡng nan của đồng đô la Mỹ và cơ hội đổi mới trong hệ thống tiền tệ quốc tế

Thế tiến thoái lưỡng nan của đồng đô la Mỹ và cơ hội đổi mới trong hệ thống tiền tệ quốc tế

18/10/2025
10
Mỹ có thực sự muốn chiến tranh ở Biển Đông?

Mỹ có thực sự muốn chiến tranh ở Biển Đông?

17/10/2025
117
Các xu hướng chính trong phát triển lực lượng tên lửa hạt nhân của Trung Quốc

Các xu hướng chính trong phát triển lực lượng tên lửa hạt nhân của Trung Quốc

16/10/2025
80
Nghịch lý “thừa thầy, thiếu thợ” tại Trung Quốc: Bài học cho chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam

Nghịch lý “thừa thầy, thiếu thợ” tại Trung Quốc: Bài học cho chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam

14/10/2025
161

Cộng đồng nghiên cứu chiến lược và các vấn đề quốc tế.

Liên hệ

Email: [email protected]; [email protected]

Danh mục tin tức

  • Bầu cử tổng thống mỹ
  • Châu Á
  • Châu Âu
  • Châu Đại Dương
  • Châu Mỹ
  • Châu Phi
  • Chính trị
  • Chuyên gia
  • Khu vực
  • Kinh tế
  • Lĩnh vực
  • Media
  • Phân tích
  • Quốc phòng – an ninh
  • Sách
  • Sự kiện
  • Sự kiện
  • Thông báo
  • Thư viện
  • TIÊU ĐIỂM – ĐẠI HỘI ĐẢNG XX TQ
  • Xã hội
  • Ý kiến độc giả
No Result
View All Result
  • Trang Chủ
  • Lĩnh vực
    • Kinh tế
    • Xã hội
    • Quốc phòng – an ninh
    • Chính trị
  • Khu vực
    • Châu Á
    • Châu Âu
    • Châu Mỹ
    • Châu Phi
    • Châu Đại Dương
  • Phân tích
    • Ý kiến độc giả
    • Chuyên gia
  • Thư viện
    • Sách
    • Tạp chí
    • Media
  • Podcasts
  • Giới thiệu
    • Ban Biên tập
    • Dịch giả
    • Đăng ký cộng tác
    • Thông báo

© 2022 Bản quyền thuộc về nghiencuuchienluoc.org.