Israel và Hamas đã đồng ý giai đoạn đầu tiên của một khuôn khổ ngừng bắn mới. Đó là một sự tạm dừng đáng hoan nghênh sau cuộc chiến thảm khốc đã tàn phá Gaza suốt hai năm qua. Tuy nhiên, trước khi người ta ăn mừng và gọi đó là một thắng lợi ngoại giao, thế giới phải xét đến hai thực tế khó chịu: thỏa thuận này có những điểm tương đồng đáng lo ngại với lệnh ngừng bắn hồi tháng 1 đã sụp đổ chỉ sau vài tháng, và nó phản ánh rõ ràng rằng, những vấn đề mang tính cấu trúc đã châm ngòi cho cuộc xung đột này vẫn chưa được giải quyết.
Tiền lệ ngừng bắn không thể bỏ qua
Hãy làm rõ những gì đã xảy ra vào tháng 1 và tháng 3 năm 2025. Một thỏa thuận ba giai đoạn được đàm phán kỹ lưỡng đã được ký kết giữa hai bên, với sự làm trung gian của Hoa Kỳ, Ai Cập và Qatar. Thỏa thuận này bao gồm việc trao đổi con tin, thả tù nhân, các điều khoản viện trợ nhân đạo và các cam kết rút quân của Israel. Thỏa thuận này đã được duy trì đúng 58 ngày trước khi Israel bất ngờ không kích vào ngày 18 tháng 3, nối lại toàn bộ chiến dịch.
Những điểm tương đồng này thật đáng lo ngại. Khi đó, cũng như bây giờ, cả hai bên đều tuyên bố thỏa thuận về các điều khoản “giai đoạn đầu” trong khi vẫn duy trì những quan điểm hoàn toàn khác biệt về kết thúc cuộc chiến. Israel hiểu thỏa thuận này là một lệnh tạm dừng tạm thời, bảo lưu quyền tiếp tục các hoạt động quân sự nếu Hamas không giải giáp hoàn toàn và công nhận sự thống trị an ninh của Israel. Hamas hiểu đó là khởi đầu của một lệnh ngừng bắn vĩnh viễn, dẫn đến việc Israel rút quân và Palestine tự quản. Cả hai đều không thể đúng và không thể đi đến một kết quả tích cực cuối cùng.
Những cơ chế đã thất bại trước đây – việc dựa vào các bên trung gian để thực thi việc tuân thủ, việc thiếu các cơ chế thực thi ràng buộc, thỏa thuận về quy trình mà không có sự đồng thuận về kết quả – vẫn còn hiện hữu cho đến ngày nay. Về cơ bản, chúng ta đã đặt lại từ đầu một trò chơi mà cả hai bên đều từ chối chấp nhận các quy tắc cơ bản.
Yếu tố Trump
Tuy nhiên, thỏa thuận tháng 10 lại khác biệt ở một điểm đáng chú ý: lập trường của Mỹ. Việc Trump tốn nhiều tâm huyết vào kết quả này và lời đe dọa rõ ràng của ông đối với Hamas về việc thả con tin đã tạo ra một mức độ áp lực mà chính quyền Biden, bất chấp mọi nỗ lực ngoại giao, chưa bao giờ đạt được. Trump đã hứa hẹn hậu quả cho việc không tuân thủ và dường như sẵn sàng ủng hộ những lời đe dọa đó bằng sự ủng hộ thực chất dành cho Israel.
Điều này không hoàn toàn tích cực hay tiêu cực – nó phản ánh một tính toán khác về cách thức Mỹ có thể tận dụng sức mạnh ở Trung Đông. Kế hoạch 20 điểm của Trump , với đề xuất “Hội đồng Hòa bình” và sự giám sát quốc tế, thể hiện nỗ lực tạo ra các cấu trúc thể chế có thể ổn định lệnh ngừng bắn. Liệu Trump có thể duy trì được nguồn vốn chính trị và sự tập trung bền vững cần thiết cho nỗ lực này hay không vẫn còn là một câu hỏi bỏ ngỏ.
Điều đáng lo ngại hơn là cách tiếp cận này tiết lộ chiến lược của Mỹ. Kế hoạch này thực chất coi xung đột Israel-Hamas là một vấn đề riêng biệt có thể giải quyết bằng các giải pháp ngoại giao từ trên xuống, trong khi thực tế nó nằm trong các động lực khu vực rộng lớn hơn, không thể được thương lượng bằng một thỏa thuận do Washington làm trung gian. Số phận của lệnh ngừng bắn này cuối cùng sẽ không phụ thuộc vào áp lực của Mỹ hay các hội đồng quốc tế, mà phụ thuộc vào việc liệu các chủ thể chủ chốt trong khu vực – đặc biệt là Ai Cập, Qatar và Ả Rập Xê Út – có lựa chọn duy trì áp lực lên cả hai bên hay không, và liệu Iran có thay đổi lập trường khu vực để ứng phó hay không.
Thảm họa nhân đạo và tái thiết
Hơn 67.000 người đã thiệt mạng trong cuộc chiến của Israel ở Gaza, 170.000 người bị thương và toàn bộ lãnh thổ này gần như không thể sinh sống được. Lệnh ngừng bắn hồi tháng 1 cho thấy ngay cả khi giao tranh chấm dứt, hậu cần cho công cuộc tái thiết vẫn rất khó khăn, và các hạn chế của Israel đối với vật liệu xây dựng, thiết bị và tài nguyên thường vẫn được duy trì.
Nhu cầu nhân đạo là không thể phủ nhận. Người dân Gaza đang rất cần tiếp cận lương thực, nước sạch, điện và chăm sóc y tế. Các gia đình cần được đoàn tụ. Người chết cần được an nghỉ và tưởng nhớ. Các điều khoản của thỏa thuận hiện hành về viện trợ nhân đạo và việc đưa người dân di tản trở về nhà là những bước đi thiết yếu đầu tiên. Tuy nhiên, tiếp cận nhân đạo và tái thiết thực sự là hai vấn đề khác nhau.
Tái thiết thực sự – xây dựng lại nhà ở, trường học, bệnh viện, cơ sở hạ tầng nước sạch và vệ sinh – không chỉ đòi hỏi viện trợ mà còn cần xi măng, thép gia cố, máy phát điện và thiết bị hạng nặng. Nó đòi hỏi quyền tự do di chuyển cho người dân Gaza trong và ngoài Gaza. Nó đòi hỏi chấm dứt lệnh phong tỏa, chứ không chỉ là những lệnh tạm dừng nhân đạo trong khu vực. Kinh nghiệm hồi tháng Một cho thấy Israel sẽ phản đối việc bình thường hóa hoàn toàn thương mại và di chuyển, coi những hạn chế này là biện pháp an ninh chống lại việc Hamas tái vũ trang.
Đây là thực tế khó chịu: không thể có một cuộc tái thiết thực sự nếu không giải quyết những lo ngại về an ninh thúc đẩy những hạn chế này. Điều này đòi hỏi hoặc (1) Hamas thực sự giải trừ vũ khí và chuyển đổi chính trị, hoặc (2) thiết lập một cơ cấu quản trị Palestine hậu Hamas với sự bảo đảm an ninh của các quốc gia Ả Rập. Cả hai kết quả này dường như đều không được đưa ra bàn thảo trong các cuộc đàm phán hiện tại.
Chính trị Israel và vấn đề giải trừ quân bị
Mâu thuẫn cốt lõi giữa khuôn khổ của Trump và các yêu cầu của chính phủ Israel hiện nay là không thể dung hòa. Theo kế hoạch của Trump, sau khi Hamas trao trả tù binh, chiến tranh sẽ kết thúc. Tuy nhiên, Israel tuyên bố chiến tranh chỉ kết thúc sau khi Hamas giải giáp vũ khí .
Đây không chỉ là sự khác biệt về mặt ngữ nghĩa. Netanyahu luôn khẳng định rằng mục tiêu chiến tranh của Israel bao gồm việc phá hủy hoàn toàn năng lực quân sự và chính trị của Hamas. Ông ta cũng chỉ ra, thông qua các tuyên bố của các thành viên cấp cao trong liên minh và thông qua chính sách, rằng việc Israel kiểm soát an ninh lâu dài đối với Gaza – đặc biệt là Hành lang Philadelphia – vẫn là mục tiêu của chính phủ. Một tuyên bố chính thức của Israel vào tháng 3 năm 2025 cho biết chính phủ của Netanyahu đang xem xét việc sáp nhập chính thức và tái định cư một số khu vực của Gaza, một mục tiêu về cơ bản trái ngược với quyền tự quyết của người Palestine.Những điều này không có nghĩa là những lo ngại về an ninh của Israel liên quan đến việc Hamas tái vũ trang là vô căn cứ. Hamas trước nay vẫn sử dụng lệnh ngừng bắn để tái thiết năng lực quân sự. Tổ chức này vẫn kiên quyết đấu tranh vũ trang chống lại Israel và ít quan tâm đến việc chuyển đổi chính trị thực sự hay chấp nhận một nhà nước Palestine trong phạm vi biên giới năm 1967 giáp Israel. Đây là những cân nhắc chính đáng về an ninh của Israel. Nhưng chúng phải được nhìn nhận đúng bản chất: là những trở ngại cho một giải pháp hòa bình lâu dài, chứ không phải là những vấn đề mà chiến thắng quân sự có thể giải quyết. Israel không thể phá hủy một ý tưởng bằng hỏa lực. Hamas không thể chấp nhận một giải pháp lâu dài từ bỏ yêu sách của Palestine đối với lãnh thổ mà họ đã mất năm 1967. Đây là những mâu thuẫn mang tính cấu trúc mà không áp lực quân sự hay hòa giải quốc tế nào có thể giải quyết được.
Khoảng trống chính trị của Palestine
Sự im lặng của thỏa thuận về tái thiết chính trị Palestine thật đáng kinh ngạc. Chính quyền Palestine, cơ quan quản lý Bờ Tây, đã bị gạt ra ngoài lề ở Gaza trong gần hai thập kỷ. Hamas, cơ quan quản lý Gaza, không thể vừa giải giáp vũ khí vừa duy trì vai trò là một lực lượng chính trị. Không có giải pháp thay thế đáng tin cậy nào cho chính quyền Palestine được xây dựng trong suốt cuộc chiến. “Hội đồng Hòa bình” do Trump đề xuất, do Tổng thống Mỹ chủ trì và có sự tham gia của các nhà lãnh đạo quốc tế như cựu Thủ tướng Anh Tony Blair, thể hiện một nỗ lực áp đặt sự quản lý từ bên ngoài lên Gaza. Trong lịch sử, những thỏa thuận như vậy thường mang lại kết quả trái chiều. Các chính quyền quốc tế ở Bosnia, Kosovo và nhiều nơi khác đã phải vật lộn để xây dựng các thể chế bản địa có khả năng tự duy trì sau khi sự hỗ trợ từ bên ngoài kết thúc. Gaza còn phải đối mặt với những khó khăn khác. Đây không phải là một lãnh thổ đồng nhất về mặt sắc tộc, không có truyền thống quản lý dân chủ, và đã bị tàn phá bởi hai năm chiến tranh. Một cách tiếp cận thực tế hơn sẽ bao gồm việc xây dựng năng lực quản trị bản địa của Palestine ngay từ đầu, với các quốc gia Ả Rập – đặc biệt là Ai Cập và Ả Rập Xê Út – cung cấp bảo đảm an ninh và hỗ trợ kinh tế để đảm bảo rằng bất kỳ chính quyền nào do Palestine lãnh đạo đều không trở thành nơi ẩn náu cho Hamas tái vũ trang hoặc ảnh hưởng của Iran. Điều này đòi hỏi một cam kết kéo dài nhiều năm và đầu tư đáng kể của các quốc gia Ả Rập vào việc quản trị Palestine.
Những tác động khu vực và Trung Đông rộng lớn hơn
Lệnh ngừng bắn tháng 10, nếu được duy trì, sẽ định hình lại các liên minh khu vực. Ả Rập Xê Út đã đầu tư đáng kể vốn ngoại giao vào các sáng kiến hòa bình ở Gaza và xây dựng mối quan hệ với Israel. Một lệnh ngừng bắn ổn định sẽ phục vụ lợi ích của Ả Rập Xê Út bằng cách duy trì đà tiến tới bình thường hóa quan hệ với Israel. Ai Cập, quốc gia sẽ gánh chịu gánh nặng nhân đạo và an ninh nếu Gaza sụp đổ, rõ ràng có lợi ích trong việc tái thiết và ổn định. Qatar đã duy trì vai trò trung gian hòa giải và duy trì ảnh hưởng trong giới Hamas.
Điều vẫn chưa chắc chắn là phản ứng của Iran. Trong suốt cuộc xung đột, các nhóm được Iran hậu thuẫn đã tìm cách mở rộng xung đột ra khỏi Gaza, xâm chiếm Lebanon và các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng. Việc Iran xem lệnh ngừng bắn là cơ hội để củng cố những thành quả đã đạt được hay là một trở ngại cần được giải quyết phụ thuộc vào nhiều yếu tố vượt xa bản thân Gaza – chính sách của Mỹ đối với Iran, những toan tính của giới lãnh đạo Iran về sự cạnh tranh khu vực với Ả Rập Xê Út, và tính bền vững của các lệnh trừng phạt quốc tế.
Một nhận định mang tính quy phạm: bất kỳ lệnh ngừng bắn bền vững nào ở Gaza cũng phải bao gồm các thỏa thuận an ninh khu vực nhằm ngăn chặn cả các cuộc phiêu lưu quân sự của Israel lẫn sự leo thang căng thẳng do Iran hậu thuẫn. Điều này đòi hỏi sự phối hợp giữa các lợi ích của Mỹ, Ả Rập và Israel, điều hiện chưa được thể chế hóa.
Bài học từ thất bại và điều kiện thành công
Lệnh ngừng bắn tháng 1-tháng 3 thất bại vì cả hai bên đều nhận ra, sau khi giao tranh tạm dừng, rằng họ có những mục tiêu chiến tranh không tương thích mà họ đã che giấu thông qua đàm phán. Israel tin rằng họ chỉ tạm dừng xung đột. Hamas tin rằng thỏa thuận này đánh dấu sự kết thúc của chiến tranh. Khi tháng 3 đến, những mâu thuẫn này trở nên không thể dung hòa. Để thỏa thuận này thành công, cả hai bên phải chấp nhận một cơ chế ràng buộc trung gian. Nhưng hiện tại, không bên nào tin tưởng bên kia. Cả hai bên đều chưa đồng ý về các cơ chế xác minh độc lập với quyền thực thi thực sự. Cả hai bên đều có kinh nghiệm diễn giải các thỏa thuận theo hướng có lợi nhất cho mình. Do đó, các yêu cầu bắt buộc để thành công là:
Đầu tiên, thiết lập một cơ chế giám sát quốc tế đáng tin cậy với các quyền thực thi – không chỉ là những người trung gian, mà còn là những người giám sát có thẩm quyền chứng nhận sự tuân thủ và đề xuất các biện pháp thực thi, chủ yếu có nghĩa là đặt điều kiện cho viện trợ quân sự của Hoa Kỳ và hỗ trợ kinh tế của các quốc gia Ả Rập dựa trên sự tuân thủ.
Thứ hai, thiết lập các tiêu chí rõ ràng, khách quan cho việc “giải trừ vũ khí” của Hamas và “tuân thủ an ninh” của Israel. Giải trừ vũ khí nghĩa là gì? Phá hủy hoàn toàn tất cả vũ khí, hay chấp nhận một lực lượng phòng thủ hạn chế? Việc Israel tuân thủ an ninh nghĩa là gì? Lực lượng Israel phải rời khỏi bao nhiêu lãnh thổ? Những hạn chế nào được áp dụng cho các hoạt động quân sự của Israel tại các khu vực còn lại? Những điều này cần được đàm phán một cách rõ ràng, chứ không phải mơ hồ.
Thứ ba, cần gắn kết hoạt động tái thiết nhân đạo và việc vận chuyển hàng hóa vào Gaza với các chỉ số tuân thủ. Cả hai bên cần có động lực để tuân thủ thỏa thuận, vượt ra ngoài các cam kết đàm phán đơn thuần. Các nguồn lực tái thiết kinh tế, tiếp cận thương mại và quyền di chuyển cần được đặt điều kiện dựa trên việc tuân thủ đã được xác minh.
Thứ tư, hãy đầu tư nghiêm túc vào việc xây dựng năng lực quản trị của Palestine trước khi cố gắng trao quyền hành chính cho bất kỳ thực thể Palestine nào. Điều này đòi hỏi một chương trình dài hạn, được tài trợ tốt do các quốc gia Ả Rập dẫn dắt và được các tổ chức quốc tế hỗ trợ.
Thỏa thuận ngừng bắn này là một bước tạm dừng cần thiết trong một cuộc xung đột tàn khốc. Nó có thể thành công trong việc đảm bảo việc giải cứu các con tin còn lại và mang lại cứu trợ nhân đạo ngay lập tức cho người dân Gaza đang chịu đau khổ. Đây là những thành tựu quan trọng không nên bị xem nhẹ. Nhưng cần thận trọng duy trì kỳ vọng khiêm tốn về triển vọng dài hạn của nó. Những xung đột cơ bản dẫn đến cuộc chiến này vẫn chưa được giải quyết. Yêu sách của Israel về việc bảo vệ biên giới, yêu sách tự quyết của Palestine, cam kết đấu tranh vũ trang của Hamas, việc Israel từ chối công nhận nhà nước Palestine dưới sự cai trị của Hamas, và lợi ích khu vực của Mỹ và Ả Rập trong việc duy trì ổn định vẫn chưa được dung hòa. Chúng đã bị che đậy bằng ngôn ngữ mà cả hai bên đều diễn giải khác nhau.
Kết quả thực tế tốt nhất là lệnh ngừng bắn này kéo dài đủ lâu để giải quyết các nhu cầu nhân đạo cấp bách, để con tin và tù nhân được trở về với gia đình, và để bắt đầu công cuộc tái thiết tối thiểu. Nếu điều đó xảy ra, chúng ta sẽ đạt được một điều gì đó có ý nghĩa, ngay cả khi chúng ta chưa giải quyết được xung đột tiềm ẩn. Nhưng chúng ta không được nhầm lẫn giữa việc tạm dừng đấu tranh để giải quyết những mâu thuẫn cơ cấu tiềm ẩn. Và chúng ta phải nhận ra rằng gánh nặng lớn nhất trong việc đảm bảo thành công của thỏa thuận này không nằm ở các nhà trung gian quốc tế, mà nằm ở việc liệu các bên liên quan Israel và Palestine có nhận ra, thông qua kinh nghiệm, rằng lợi ích lâu dài của họ sẽ được phục vụ tốt hơn thông qua việc cùng tồn tại thông qua đàm phán thay vì cạnh tranh quân sự để giành quyền tối cao về lãnh thổ và chính trị hay không.Khám phá đó vẫn chưa xảy ra. Cho đến khi nó xảy ra, mọi thỏa thuận vẫn chỉ là tạm thời./.
Biên dịch: Hoàng Hải
Tác giả: Tiến sĩ Leon Hadar là biên tập viên của The National Interest, Nghiên cứu viên cao cấp tại Viện Nghiên cứu Chính sách Đối ngoại (FPRI) ở Philadelphia. Ông từng giảng dạy tại Đại học American ở Washington, D.C.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của Nghiên cứu Chiến lược. Mọi trao đổi học thuật và các vấn đề khác, quý độc giả có thể liên hệ với ban biên tập qua địa chỉ mail: [email protected]