Khi nhiệm kỳ của Tổng thống Biden khép lại, nước Mỹ đứng trước một ngã rẽ đầy biến động không chỉ với sự chia rẽ bên trong nội bộ mà còn trên trường quốc tế. Bốn năm cầm quyền của nhà lãnh đạo cao tuổi nhất chính trường luôn phải bận rộn xử lý hàng loạt cuộc xung đột liên tục bùng phát và kéo dài từ Á sang Âu. Nhiệm kỳ mới bắt đầu, chính quyền mới của Tổng thống Trump được thừa hưởng một di sản địa chính trị phức tạp, nơi những mảnh ghép lợi ích đan xen giữa đồng minh và đối thủ, giữa cam kết chiến lược và sự mệt mỏi từ các điểm nóng xung đột. Với những động thái mới gần đây của vị tỉ phú Mỹ, câu hỏi đặt ra là Trump 2.0 có đang cố dọn dẹp di sản của Biden hay không? Và điều đó sẽ được thực hiện theo cách như thế nào để tập trung vào tái định hình trật tự theo hướng có lợi cho nước Mỹ?
Chuyển đổi nền tảng chính sách can dự xung đột
Trong phát biểu nhậm chức tháng 1/2021, Tổng thống Mỹ Biden tuyên bố “nền dân chủ đã chiến thắng”[1]. Có nhiều quan điểm cho rằng chính quyền Biden chỉ đơn thuần là sự tiếp nối di sản của thời Obama, nhưng thực tế cho thấy giữa hai nhiệm kỳ vẫn tồn tại những khác biệt quan trọng. Dưới thời Obama, dù Nhà Trắng có chủ trương rút quân khỏi Iraq và Afghanistan nhưng tiếng súng của quân đội Mỹ vẫn chưa ngừng ở Trung Đông. Điều này được thực hiện xuyên suốt qua cả nhiệm kỳ đầu của ông Trump. Tuy nhiên, đến thời Biden, sự khác biệt càng trở nên rõ nét hơn khi ông tập trung vào việc giảm thiểu tối đa sự can dự quân sự trực tiếp của Mỹ, đồng thời thúc đẩy các phương thức chiến tranh phi truyền thống và gia tăng vai trò của các đồng minh. Quyết định này không chỉ có ý nghĩa với riêng nước Mỹ mà còn tác động mạnh mẽ đến cục diện chính trị – quân sự toàn cầu, khi Mỹ không còn dàn trải lực lượng trên nhiều mặt trận như trước, mà chuyển hướng tập trung vào các chiến lược đối phó với những thách thức mới.
Ở cương vị Tổng thống thứ 46 của Mỹ, không thể phủ nhận rằng trong nhiệm kỳ của mình, ông Biden đã gặt hái được những thành tựu đáng kể đặc biệt thành công trong việc chuyển đổi nền tảng chính sách đối ngoại, từ trực tiếp can thiệp quân sự sang định hướng ngoại giao chủ động và tích cực hậu thuẫn cho các cuộc xung đột bên ngoài nước Mỹ. Những thay đổi này mở ra một giai đoạn mới trong chính sách an ninh của Mỹ, nơi sức mạnh quân sự vẫn đóng vai trò then chốt nhưng phương thức triển khai đã trở nên linh hoạt và ít tổn thất hơn so với những thập kỷ trước.
Kết thúc “sứ mệnh” của Mỹ tại Afghanistan
Di sản của Tổng thống Biden còn in dấu đậm nét với quyết định rút toàn bộ quân đội Mỹ khỏi Afghanistan vào năm 2021 đã đánh dấu sự kết thúc của một chương dài trong lịch sử can dự quân sự của Mỹ, chấm dứt cuộc chiến kéo dài suốt hai thập kỷ qua bốn đời Tổng thống. Đồng thời, nó phản ánh sự thay đổi trong ưu tiên chiến lược của Washington, khi Mỹ muốn tập trung nhiều hơn vào cạnh tranh địa chính trị với các đối thủ lớn nhất là Trung Quốc, thay vì tiếp tục dàn trải sức mạnh quân sự ở những khu vực có giá trị chiến lược suy giảm. Tuy nhiên, quyết định này cũng gây ra những nghi ngại về tính bền vững trong cam kết của Mỹ đối với các đồng minh và đối tác an ninh khu vực Trung Đông.
Sự rút lui của Mỹ có thể được nhìn nhận như một động thái giảm can thiệp quân sự đồng thời nó cũng mở ra những hy vọng về một thế giới ít xung đột hơn, nơi các quốc gia có thể tìm kiếm những giải pháp hòa bình thay vì phụ thuộc vào sức mạnh quân sự. Việc kết thúc cuộc chiến Afghanistan, dù gây nhiều tranh cãi, vẫn là một bước ngoặt trong chính sách đối ngoại của Mỹ, góp phần định hình lại cách tiếp cận của Washington đối với các cuộc xung đột dài hạn trong tương lai.
Những biến cố liên tục xuất hiện
Chỉ vài tháng sau khi rút quân khỏi Afghanistan, chính quyền Biden lại tiếp tục đối mặt với một thử thách mới khi đầu năm 2022, Tổng thống Nga Putin phát động “chiến dịch quân sự đặc biệt” tại Ukraine. Cuộc chiến đó vẫn kéo dài cho đến nay đã làm thay đổi hoàn toàn cấu trúc an ninh châu Âu và tiêu tốn của Mỹ hàng trăm tỷ Đô la viện trợ. Trong khi đó, Trung Đông năm 2023 bùng phát trở lại vòng xoáy bất ổn với xung đột Israel – Hamas, đặt Mỹ vào thế phải cân bằng lợi ích giữa đồng minh Israel và các quốc gia Arab. Cùng lúc đó, tại châu Á – Thái Bình Dương, căng thẳng hai miền trên bán đảo Triều Tiên và vấn đề Đài Loan tiếp tục leo thang thúc đẩy Mỹ phải có những điều chỉnh chiến lược để duy trì ảnh hưởng trong từng khu vực trọng điểm chiến lược.

Sự gia tăng các cuộc xung đột đồng thời làm bộc lộ những giới hạn trong quyết sách chiến lược của chính quyền Biden. Khi phải dàn trải phân bổ nguồn lực tài chính trên quá nhiều mặt trận, Mỹ có nguy cơ mất đi lợi thế chủ động trong cuộc cạnh tranh chiến lược với đối thủ địa chính trị lớn nhất Trung Quốc ít nhất về mặt phát triển kinh tế. Việc liên tục bị cuốn vào hai cuộc chiến tranh tại châu Âu và Trung Đông khiến chính quyền Biden không thể tập trung toàn bộ sức mạnh vào khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương nơi Trung Quốc ngày càng mở rộng ảnh hưởng. Trong bối cảnh đó, câu hỏi đặt ra là liệu nước Mỹ có đang đi đúng hướng trong việc bảo vệ lợi ích quốc gia của mình hay đang bị kéo vào một vòng xoáy chiến lược không có hồi kết?
Điều thúc đẩy chính quyền Biden tiến sâu vào các cuộc xung đột
Mặc dù có những quan điểm chỉ trích từ nội bộ và quốc tế về việc chính quyền Biden ngày càng khiến nước Mỹ bị cuốn vào các cuộc chiến lãng phí. Thế nhưng, trên thực tế những xung đột nói trên còn mang đến nhiều lợi ích chiến lược cho Washington.
Một trong những tác động rõ rệt nhất của chính sách viện trợ duy trì xung đột thời Biden là sự gia tăng mạnh mẽ của ngành công nghiệp quân sự Mỹ. Việc hỗ trợ Ukraine trong cuộc chiến chống Nga và cung cấp vũ khí cho Israel trong xung đột với Hamas đã giúp các tập đoàn quốc phòng tiêu biểu như Lockheed Martin và Raytheon thu về lợi nhuận khổng lồ[2]. Điều này phản ánh thực tế rằng chiến tranh không chỉ là vấn đề địa chính trị mà còn là một phần của chiến lược kinh tế Mỹ, trong đó ngành công nghiệp quốc phòng đóng vai trò trung tâm.
Bên cạnh đó, chính quyền Biden cũng đã thành công trong việc làm suy yếu các đối thủ địa chính trị thông qua các cuộc xung đột. Thấy rõ nhất điều này ở Nga khi nỗ lực duy trì cuộc chiến tại Ukraine, Điện Kremlin đã chấp nhận đánh đổi tiêu hao nguồn lực quân sự và chịu cấm vận kinh tế đáng kể hơn 3 năm qua. Trong khi đó, Trung Quốc khó có thể tập trung hoàn toàn cho tham vọng mở rộng sức ảnh hưởng khu vực bởi xung quanh Bắc Kinh hình thành một vành đai bất ổn từ phía đông (khủng hoảng bán đảo Triều Tiên, vấn đề Đài Loan), phía nam (sự hiện diện Mỹ trên Biển Đông), và phía tây (xung đột ở Trung Đông).
Các điểm nóng xung đột góp phần trở thành tiếng nói chung giúp nước Mỹ quay trở lại việc củng cố và mở rộng quan hệ với các đồng minh an ninh sau giai đoạn biến cố hậu chính sách của Trump 1.0. Chính quyền Biden đã tận dụng hiệu quả cuộc chiến tại Ukraine để gia tăng sự đoàn kết trong khối NATO. Sự tham gia của Phần Lan và Thụy Điển vào NATO trở thành minh chứng rõ ràng cho chiến lược tái cấu trúc an ninh châu Âu của Washington. Đồng thời, Mỹ cũng đã thành công trong việc gắn chặt các đồng minh châu Á thể chế hóa liên kết ba bên Mỹ – Nhật – Hàn hoạt động hiệu quả bên cạnh các cơ chế như QUAD, AUKUS tạo ra một mạng lưới an ninh rộng lớn củng cố chiến lược “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” nhằm đối phó với Trung Quốc.
Nhìn chung, di sản xung đột của chính quyền Biden không chỉ nằm ở số lượng các cuộc xung đột mà Mỹ can dự mà còn ở cách Washington biến những xung đột này để củng cố vị thế địa chính trị, lấy lại lòng tin của đồng minh và gây áp lực lên các đối thủ cạnh tranh. Dù có những hệ quả tiêu cực, chiến lược của Biden đã giúp Mỹ duy trì vai trò lãnh đạo toàn cầu trong một thế giới đầy biến động.
Những thách thức Trump 2.0 cần giải quyết phía trước
Trong tháng đầu tiên của nhiệm kỳ, Tổng thống Trump đã cho thấy một tốc độ làm việc năng suất hơn so với những người tiền nhiệm khi liên tục triển khai các biện pháp nhằm củng cố và tái khẳng định chính sách “nước Mỹ trên hết” mà ông theo đuổi. Tuy nhiên, những bước đi đầu tiên của Trump vẫn chưa đủ để có thể khẳng định tương lai của các cuộc xung đột kéo dài như chiến tranh Ukraine, căng thẳng Trung Đông hay những thách thức trong quan hệ Mỹ – Trung. Do đó, dù cho thấy được sự quyết đoán và lập trường giải quyết song chính quyền Trump vẫn cần nhiều thời gian và những chiến lược dài hạn hơn để có thể tạo ra những thay đổi thực chất trong cục diện xung đột toàn cầu.
Cuộc chiến tại Ukraine sẽ là ưu tiên hàng đầu của chính quyền Trump trong năm 2025, tuy nhiên Trump cũng không hoàn toàn có động lực để nhanh chóng chấm dứt cuộc chiến bởi sự kéo dài của nó mang lại nhiều lợi ích hơn thiệt hại cho Mỹ. Mặc dù trước đó ông Trump liên tục đề cập tới khả năng chấm dứt cuộc chiến trong 24 giờ nhưng cho đến nay ông Trump vẫn chưa công bố một lộ trình về giải pháp hòa bình cụ thể. Tuy nhiên, sự tiếp xúc ngoại giao giữa Nga và Mỹ tại Arab Saudi đã thiết lập thành công một kênh đối thoại thường xuyên giữa hai cường quốc về vấn đề Ukraine[3]. Nếu để dừng viện trợ Kiev đẩy phần thắng cho Moscow dễ dàng mà Washington không đạt được lợi ích trở thành điều không tưởng nếu đối chiếu với phong cách lãnh đạo của Trump. Thay vào đó, Trump đang lên kế hoạch “cây gậy và củ cà rốt” đối với cả Nga và Ukraine kết hợp giữa biện pháp gây áp lực và thỏa hiệp để buộc các bên tham chiến phải điều chỉnh lập trường theo hướng có lợi cho Mỹ[4]. Những thông tin gần đây về các phát ngôn cùng lời cam kết sẽ cùng Tổng thống Putin gặp mặt để giải quyết triệt để cuộc chiến tuy nhiên thực tế hóa được hay không còn ở một khoảng cách. Ngoài ra, những tương tác ngoại giao gây chú ý giữa Zelensky và “Trump 2.0” vừa qua cũng chưa đủ để khẳng định điều gì. Mỹ có thể sẽ có tác động đối với sự thay đổi quyền lực ở Kiev thời gian tới, nhưng cho dù có người thay thế Zelensky thì liệu người đó có khả năng kết thúc cuộc chiến hay không vẫn còn là một ẩn số.
Đối với cuộc xung đột tại Gaza, một cách tiếp cận Trung Đông với áp lực lớn hơn so với thời kỳ Biden sẽ được chính quyền Trump tính tới nhưng điều đó không có nghĩa rằng Mỹ sẽ mặn mà trở lại với khu vực này. Thực tế, ông Trump từng nỗ lực thúc đẩy hòa bình giữa các bên thông qua Hiệp định Abraham năm 2020 và coi đó như một trong những thành tựu ngoại giao quan trọng dưới chính quyền của ông. Tuy nhiên, cách tiếp cận thường thấy của Trump luôn mang tính thực dụng và ưu tiên lợi ích chiến lược của Mỹ hơn là các mục tiêu hòa bình toàn diện. Do đó, ông Trump có thể sẽ lựa chọn cải thiện quan hệ với những quốc gia có vai trò quan trọng trong cấu trúc an ninh và kinh tế của Mỹ chẳng hạn UAE, Arab Saudi chứ không phải với toàn bộ Trung Đông. Ngược lại, quan hệ với Iran vẫn là một dấu hỏi lớn. Trong nhiệm kỳ đầu tiên, ông Trump đã rút Mỹ khỏi thỏa thuận hạt nhân JCPOA và áp đặt trừng phạt cứng rắn đối với Tehran, khiến căng thẳng giữa Mỹ – Iran leo thang nguy hiểm. Do vậy, nhiều khả năng Trump sẽ tiếp tục chính sách đối đầu với Iran thay vì tìm cách tái đàm phán. Mặc dù vậy, dưới thời lãnh đạo mới có tư tưởng cởi mở với phương Tây sẽ đặt Iran vào trạng thái sẵn sàng để hợp nhất vào Hiệp định Abraham. Bên cạnh đó, vấn đề Palestine cũng sẽ không nằm trong ưu tiên Trung Đông của Trump, bởi ông đã từng thể hiện lập trường tiếp tục ủng hộ cuộc chiến mà Israel đang tiến hành tại Gaza mà thậm chí muốn Mỹ kiểm soát toàn bộ Gaza[5].
Về cách xử lý quan hệ với Trung Quốc và tương lai của vấn đề Đài Loan, chính quyền Trump nhiều khả năng sẽ tiếp tục sử dụng lá bài Đài Loan để gây sức ép với Bắc Kinh. Một dạng chính sách cứng rắn với cả Trung Quốc và Đài Loan nhưng theo cách thực dụng hơn đặt lợi ích của Mỹ lên hàng đầu sẽ được duy trì thông qua công cụ áp lực kinh tế. Mặc dù ông Trump từng thể hiện sự ủng hộ đối với Đài Loan độc lập, nhưng Trump không phải là người ủng hộ việc biến Đài Loan thành một Ukraine thứ hai, bởi điều đó sẽ kéo Mỹ vào một cuộc xung đột tốn kém và rủi ro cao với Trung Quốc điều mà Trump luôn tìm cách tránh. Thay vào đó ông Trump sẽ tranh thủ Đài Loan như một con bài chiến lược để gây sức ép lên đồng thời cả Bắc Kinh lẫn chính quyền Đài Bắc. Ông Trump sẽ tiếp tục củng cố mối quan hệ quốc phòng với Đài Loan nhưng theo một cách có lợi cho Mỹ buộc Đài Bắc phải phụ thuộc nhiều hơn vào Washington cả về kinh tế lẫn an ninh, tương tự như cách ông từng gây sức ép buộc Hàn Quốc và Nhật Bản phải đóng góp nhiều hơn đổi lại là chiếc ô an ninh từ Washington vẫn được bảo đảm.
Sau cùng, vấn đề phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên sẽ tiếp tục là một vấn đề quan trọng đối với chính quyền Trump 2.0 thậm chí còn đáng quan tâm hơn so với vấn đề Đài Loan. Hội nghị thượng đỉnh Mỹ – Triều năm 2019 tại Hà Nội cho thấy rõ bước đi ngoại giao táo bạo khi Trump trở thành tổng thống Mỹ đầu tiên đối thoại trực tiếp nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-un, mở ra một giai đoạn đối thoại chưa từng có giữa Washington và Bình Nhưỡng. Mặc dù cuộc đàm phán được Mỹ đặt nhiều hy vọng này không dẫn đến một thỏa thuận phi hạt nhân hóa bền vững nhưng đã thể hiện rõ ràng cách tiếp cận đặc biệt của Trump coi ngoại giao cá nhân là công cụ chính trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế. Sau đó ông Trump cũng chính thức trở thành Tổng thống Mỹ đầu tiên bước chân qua vĩ tuyến 38 để tiến vào Triều Tiên điều mà từ sau năm 1953 chưa chính trị gia Mỹ nào thực hiện được. Do đó, khác với chính sách “kiên nhẫn chiến lược” của Obama hay cách tiếp cận mang tính răn đe quân sự của Biden, Trump có khả năng chọn cách tiếp cận linh hoạt hơn, không tập trung quá nhiều vào áp lực cấm vận mà thay vào đó sử dụng những nhượng bộ kinh tế có điều kiện để cho thấy những bước đi cụ thể trong tiến trình phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên.
Tổng kết lại, di sản xung đột dưới thời chính quyền Tổng thống Biden không chỉ là hệ quả của những quyết sách trong nhiệm kỳ mà còn phản ánh ở đó sự chuyển động sâu sắc trong cấu trúc quyền lực toàn cầu và trách nhiệm của Mỹ trong hệ thống quốc tế đang phân mảnh rõ rệt. Lịch sử đã chứng minh rằng chính sách đối ngoại của Mỹ luôn có sự đan xen giữa một bên là lợi ích quốc gia cùng với những biến động bên ngoài lãnh thổ. Dưới bất kỳ chính quyền nào, những xung đột và thách thức không bao giờ biến mất mà chỉ chuyển hóa theo những hình thái mới. Trong bối cảnh hiện nay, Trump 2.0 đã phản ánh một quy luật mới rằng đó không chỉ là cách Mỹ phản ứng với thế giới mà còn là cách thế giới điều chỉnh trước những thay đổi từ Mỹ.
Tác giả: Phạm Quang Hiền
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của Nghiên cứu Chiến lược. Mọi trao đổi học thuật và các vấn đề khác, quý độc giả có thể liên hệ với ban biên tập qua địa chỉ mail: [email protected]
Tài liệu tham khảo:
[1] William A. Galston (2021), “Biden’s inaugural address—unity and truth”, Brookings. https://www.brookings.edu/articles/bidens-inaugural-address-unity-and-truth/
[2] Mike Stone (2024), “Ukraine, Israel bill to bolster Lockheed, RTX profits”, Reuters. https://www.reuters.com/business/aerospace-defense/ukraine-israel-bill-bolster-lockheed-rtx-profits-2024-04-25/
[3] Matthew Lee & Vladimir Isachenkov (2025), “A deeper look at the talks between US and Russian officials as Trump suggests Ukraine is to blame”, AP News. https://apnews.com/article/us-russia-rubio-lavrov-ukraine-saudi-arabia-94bc4de5ecc86922d6ea4376e38f1cfd
[4] Thành Đạt (2025), “Ông Trump sẽ tung “cây gậy và củ cà rốt” để chấm dứt xung đột Ukraine”, Dân Trí. https://dantri.com.vn/the-gioi/ong-trump-se-tung-cay-gay-va-cu-ca-rot-de-cham-dut-xung-dot-ukraine-20250207101228780.htm
[5] Mạnh Dương (2025), “Ông Trump tái khẳng định cam kết kiểm soát Gaza”, VTV Online. https://vtv.vn/the-gioi/ong-trump-tai-khang-dinh-cam-ket-kiem-soat-gaza-20250210091719721.htm