Chiến dịch quân sự đặc biệt của Nga tại Ukraine đã kéo dài hơn một năm, trở thành cuộc xung đột và đối đầu địa chính trị lớn nhất sau Chiến tranh Lạnh, có khả năng gây ra thảm họa đặc biệt nghiêm trọng đối với toàn cầu. Mặc dù Trung Quốc không phải là một bên trong cuộc xung đột và không tham gia tích cực vào việc giải quyết xung đột, nhưng với tư cách là một quốc gia có quan hệ sâu sắc với các nước khác trên thế giới, đồng thời có ảnh hưởng quốc tế quan trọng, xung đột Nga – Ukraine đã tác động mạnh mẽ và khiến Trung Quốc phải đối mặt với nhiều thách thức lớn. Hiểu được những thách thức này và nguyên nhân gốc rễ của chúng có ý nghĩa to lớn đối với Trung Quốc để tiếp tục thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, duy trì và thúc đẩy sự ổn định, thịnh vượng của cộng đồng quốc tế.
Sự phát triển kinh tế bị xáo trộn nghiêm trọng bởi thế giới bên ngoài
Sự phát triển kinh tế của Trung Quốc phần lớn phụ thuộc vào sự ổn định của thị trường bên ngoài. Theo dữ liệu trước khi nổ ra xung đột giữa Nga và Ukraine, năm 2021, quy mô ngoại thương của Trung Quốc đạt 6,05 nghìn tỷ USD, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế là 20,9%. Điều này phản ánh đầy đủ rằng sự phát triển kinh tế của Trung Quốc gắn chặt với sự ổn định của thị trường toàn cầu. Tuy nhiên, xung đột quân sự giữa Nga và Ukraine đã và đang làm xáo trộn thị trường bên ngoài. Điều này thể hiện chủ yếu ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, các biện pháp trừng phạt toàn diện của phương Tây đối với Nga đã dẫn đến những thay đổi lớn trong thương mại quốc tế (đặc biệt là thương mại năng lượng và lương thực), hệ thống tài chính quốc tế cũng bị xáo trộn nghiêm trọng. Ví dụ, các biện pháp trừng phạt và cưỡng chế trong lĩnh vực năng lượng đã đẩy giá năng lượng lên cao, thúc đẩy sự tăng giá của nhiều loại hàng hóa, thậm chí làm tăng chi phí hoạt động các doanh nghiệp trong toàn bộ chuỗi công nghiệp của nền kinh tế quốc tế, bao gồm cả việc tạo ra các mối đe dọa nghiêm trọng đối với các dự án liên quan đến sáng kiến”Một vành đai, Một con đường” của Trung Quốc.
Thứ hai, kể từ khi xảy ra đại dịch Covid-19, nhu cầu của các thị trường tiêu dùng phương Tây như Liên minh châu Âu bị suy giảm. Trong bối cảnh xung đột giữa Nga và Ukraine, Mỹ và châu Âu với tư cách là những đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc đã tiếp tục giảm hơn nữa nhu cầu công nghiệp và tiêu dùng hàng ngày. Điều đó làm giảm nghiêm trọng hoạt động thương mại và đầu tư của Trung Quốc tại các thị trường này.
Thứ ba, trong bối cảnh xung đột giữa Nga và Ukraine, phương Tây có xu hướng rút khỏi Trung Quốc, kỳ vọng lạc quan của một số công ty phương Tây đối với thị trường Trung Quốc giảm sút dẫn đến việc chuyển một số dây chuyền công nghiệp từ Trung Quốc đến Đông Nam Á, nơi có một số thị trường cạnh tranh. Điều này đã gây bất lợi cho sự phát triển công nghiệp của Trung Quốc.
Làm phức tạp thêm cuộc đối đầu địa chính trị giữa phương Tây và Trung Quốc
Cuộc đối đầu địa chính trị giữa Trung Quốc với Mỹ và phương Tây không bắt đầu từ xung đột quân sự giữa Nga và Ukraine, kể từ khi bùng phát đại dịch mới, cuộc đối đầu này đã hình thành. Tuy nhiên, kể từ khi Nga tiến hành Chiến dịch quân sự đặc biệt tại Ukraine, cuộc đối đầu địa chính trị giữa Trung Quốc với Mỹ và phương Tây đã đạt đến một cao trào mới, điều này được thể hiện ở sự thù địch ngày càng sâu sắc giữa Trung Quốc và Mỹ. Trong bối cảnh xung đột giữa Nga và Ukraine, đối thoại Trung-Mỹ dần bị lu mờ bởi những tranh cãi, cáo buộc lẫn nhau cùng nhiều biện pháp thù địch mà Mỹ áp dụng đối với Trung Quốc.
Ở một mức độ nhất định, Trung Quốc chắc chắn cần phải có sự phân biệt lập trường của Mỹ và Châu Âu đối với Trung Quốc. Châu Âu không tìm cách kiềm chế Trung Quốc về mặt chiến lược và hơn 40 quốc gia ở Châu Âu có quan điểm khác nhau về Trung Quốc. Do đó, châu Âu chưa hình thành một chính sách ngăn chặn thống nhất vững chắc chống lại Trung Quốc như Mỹ. Bên cạnh đó, các cường quốc quan trọng nhất là Đức và Pháp cũng không hoàn toàn tuân theo quan điểm của Mỹ về việc ngăn chặn Trung Quốc. Bất chấp những khác biệt này, điều đáng chú ý nằm ở việc nhiều quốc gia ở châu Âu là thành viên của NATO, thậm chí ngay chính bản thân liên minh quân sự xuyên Đại Tây Dương cũng không xác định đối thủ chính của họ là Trung Quốc. Tuy nhiên, xung đột Nga – Ukraine đã thúc đẩy khối NATO hình thành quan điểm lấy “thách thức Trung Quốc” làm lý do để tăng cường hợp tác với một số nước Châu Á và EU nhằm đối phó với Bắc Kinh.
Phương Tây dần “Ukraine hóa” vấn đề Đài Loan
Bất kể lịch sử, lý thuyết, luật pháp quốc tế và thực tế, vấn đề Đài Loan hoàn toàn khác với “vấn đề Ukraine”. Tuy nhiên, kể từ khi xung đột quân sự Nga-Ukraine nổ ra, Mỹ và phương Tây đã đặt vấn đề Đài Loan trong khuôn khổ tiêu chuẩn kép của đối đầu địa chính trị và sự phân biệt “dân chủ-độc tài” như một bản sao của “vấn đề Ukraine”.
Nói cách khác, Mỹ và phương Tây đã quyết tâm “Ukraine hóa” vấn đề Đài Loan của họ từ ba chiều. Thứ nhất, từ góc độ đối đầu địa chính trị, mâu thuẫn giữa Trung Quốc đại lục và Đài Loan bị hiểu nhầm là mâu thuẫn giữa hai “thực thể có chủ quyền”, hoàn toàn bỏ qua luật pháp quốc tế, chính trị quốc tế và yếu tố lịch sử. Trong khi trên thực tế, đây là mối quan hệ của một bộ phận trực thuộc một quốc gia có chủ quyền là Trung Quốc, chỉ có điều hòn đảo này chưa được thống nhất với Đại lục. Theo logic đối đầu địa chính trị giữa Mỹ và phương Tây, bất kỳ biện pháp “chống độc lập” nào của Trung Quốc đối với Đài Loan đều bị vu khống là “xâm lược” Đài Loan và họ có xu hướng so sánh điều này với các hành động của Nga đối với Ukraine.
Thứ hai, Mỹ và phương Tây nhìn nhận mối quan hệ giữa Trung Quốc đại lục và Đài Loan, Trung Quốc dưới góc độ “dân chủ-độc tài”, với mục đích duy trì cái gọi là “trật tự quốc tế tự do dựa trên luật lệ” ở phương Tây. Mỹ và các nước phương Tây khác sẵn sàng bảo vệ “tự do và dân chủ”, ủng hộ Đài Loan với tư cách là một “thực thể dân chủ”, giống như sau khi Nga sáp nhập một phần Ukraine, viện trợ của phương Tây cho Ukraine sẽ được coi là duy trì “tự do và nền dân chủ”.
Thứ ba, đối với một số quốc gia thành viên EU và nước láng giềng Nhật Bản của Trung Quốc, một trong những lý do phổ biến để can thiệp vào các vấn đề Đài Loan là an ninh của Eo biển Đài Loan. Eo biển này có liên quan đến các lợi ích kinh tế và thương mại lớn của họ. Riêng trường hợp của Nhật Bản, nó cũng bao gồm các lợi ích chiến lược khác.
Trước khi xảy ra xung đột Nga-Ukraine, Mỹ và phương Tây thường xuyên lấy 3 lý do trên để can thiệp vào vấn đề Đài Loan, tuy nhiên sau khi Chiến dịch quân sự đặc biệt được tiến hành, họ đã trực tiếp đánh tráo bản chất của “quan hệ Nga-Ukraine” với “Quan hệ eo biển Đài Loan” nhằm mở đường cho các tính toán trong tương lai của họ.
Tóm lại, mặc dù Trung Quốc kiên quyết phản đối việc so sánh vấn đề Đài Loan với xung đột giữa Nga và Ukraine, nhưng Mỹ và phương Tây vẫn tiếp tục ý đồ “Ukraine hóa” vấn đề Đài Loan trong dư luận, điều này đặt ra một thách thức lớn đối với đất nước chúng tôi.
Các mối đe dọa quân sự và nguy cơ phổ biến vũ khí hạt nhân đang gia tăng xung quanh Trung Quốc
Rõ ràng là sự bùng nổ của cuộc xung đột quân sự Nga-Ukraine đã kích hoạt cuộc chạy đua vũ trang và chuẩn bị chiến tranh trong xã hội phương Tây. Trường hợp đáng chú ý nhất là sau nhiều năm kiềm chế quân sự ở Đức, Chính phủ Scholz đã công bố quỹ quốc phòng 5 năm trị giá 100 tỷ euro, đây là bước ngoặt trong quá trình phát triển quân sự và thậm chí là phát triển chiến lược quốc gia của Đức. Khi hỗ trợ Ukraine, Đức cũng dần dần phá vỡ những giới hạn ban đầu và cung cấp cho nước này những chiếc xe tăng chủ lực Leopard. Những điều này cho thấy nước Đức khó có thể được gọi là một nước “hòa bình” kể từ bây giờ. Ngành công nghiệp quốc phòng của Pháp sắp chuyển mình và chi tiêu quân sự của các nước châu Âu sẽ đạt 2% GDP trong thời gian tương đối ngắn sắp tới, việc mở rộng vũ khí nhanh chóng ở Châu Âu đã trở thành hiện thực sau cuộc xung đột Nga-Ukraine. Ngoài ra, việc có thêm các quốc gia xin gia nhập NATO như Phần Lan và Thụy Điển cũng cần được tính đến.
Với sự mở rộng năng lực quân sự của châu Âu và NATO, dưới sự xúi giục của tư duy đối đầu địa chính trị, các “xúc tu” của NATO vươn ra một cách âm thầm nhưng khá nhanh chóng sang các khu vực xung quanh Trung Quốc. Điều đó đã làm năng lực quân sự của Nhật Bản, một số thành viên ASEAN và Australia tăng lên. Với tư cách là đồng minh và đối tác an ninh của Mỹ, việc phát triển quân sự của các quốc gia liên quan đang nhắm mục tiêu vào ai không khó để có thể nhận ra.
Ngoài ra, còn có một thách thức đặc biệt nguy hiểm khác, đó là nguy cơ phổ biến vũ khí hạt nhân ở Đông Á. NATO vì sợ sức mạnh hạt nhân của Nga nên chưa dám đối đầu với lực lượng vũ trang của Nga, cộng đồng quốc tế cũng chưa dám thiết lập vùng cấm bay ở Ukraine. Nga cũng thường xuyên ám chỉ rằng họ có thể sử dụng vũ khí hạt nhân trong những trường hợp bất khả kháng để loại bỏ những bất lợi chiến lược. Thông qua các biện pháp mà Mỹ đã sử dụng đối với các quốc gia như Triều Tiên có vũ khí hạt nhân và Iraq, Libya không có vũ khí hạt nhân cũng như số phận khác nhau của các quốc gia liên quan, một số quốc gia và khu vực ở Đông Á có thể cân nhắc khả năng dựa vào sự tồn tại của lực lượng hạt nhân để tránh các mối đe dọa trực tiếp từ các lực lượng quân sự bên ngoài. Trong bối cảnh xung đột quân sự Nga-Ukraine, Nhật Bản, Hàn Quốc và một số quốc gia khác đã đưa ra những quan điểm nguy hiểm muốn sở hữu vũ khí hạt nhân. Mỹ và NATO càng ít tham gia trực tiếp vào cuộc đối đầu quân sự với Nga thì nguy cơ phổ biến vũ khí hạt nhân ở Đông Á càng cao.
Xu thế đa cực có khả năng bị thay thế bằng trật tự lưỡng cực
Với sự trỗi dậy của nhóm các nước mới nổi, đa cực hóa đã trở thành một xu hướng rõ ràng trong thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh. Từ quan điểm của Trung Quốc, đa cực hóa có lợi cho việc duy trì ổn định thế giới, thúc đẩy công bằng và công lý trong cộng đồng quốc tế, đồng thời tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho sự trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc. Tuy nhiên, sau khi xung đột quân sự Nga-Ukraine nổ ra, Mỹ và các nước phương Tây khác vẫn tiếp tục vận dụng cơ chế “dân chủ – độc tài” để phân loại các quốc gia khác nhau trong cộng đồng quốc tế, mục đích phân tuyến và đối đầu rất rõ ràng. Thông qua sự chia rẽ này, Mỹ đã tăng cường liên minh với thế giới phương Tây và truyền áp lực sang nhiều nước đang phát triển, điều này khiến các quốc gia ngày càng chia rẽ.
Mặc dù xu thế phát triển đa cực hóa chưa bị đảo ngược hoàn toàn, đặc biệt là xu thế đa cực hóa dựa trên sức mạnh kinh tế vẫn đang tiếp diễn, nhưng Mỹ và phương Tây đang nỗ lực biến tình trạng đa cực hóa quốc tế dựa trên sức mạnh kinh tế thành một trật tự lưỡng cực dựa trên sự khác biệt về chính trị và ý thức hệ. Nói cách khác, ảnh hưởng của khái niệm đa cực kinh tế toàn cầu đang suy giảm, trong khi ảnh hưởng của khái niệm phân cực chính trị toàn cầu đang tăng lên. Sự thay đổi này trong khái niệm về trật tự quốc tế sẽ không có lợi cho mong muốn đề cao tính cởi mở với thế giới bên ngoài của Trung Quốc. Nó có thể đối mặt với rủi ro rằng các quốc gia phương Tây sẽ tiếp cận Trung Quốc dựa trên sự khác biệt giữa “nền kinh tế dân chủ” và “nền kinh tế độc tài”.
Chiến lược của Trung Quốc
Xung đột quân sự Nga-Ukraine đã và sẽ tiếp tục cản trở nghiêm trọng sự phát triển của Trung Quốc về mọi mặt, thậm chí sẽ làm chậm tốc độ phục hưng toàn diện của đất nước. Để đạt được mục tiêu này, Trung Quốc cần xem xét kỹ lưỡng các vấn đề liên quan và đưa ra lựa chọn phù hợp. Một số hành động hoặc biện pháp có thể cần được đưa vào chương trình nghị sự:
Trước hết, cố gắng sử dụng những giải pháp tốt nhất để xoa dịu cho đến khi dập tắt xung đột Nga-Ukraine. Nếu người ta tin rằng cuộc chiến ở Afghanistan hay Iraq do Mỹ lãnh đạo đã mang lại một thời kỳ cơ hội chiến lược cho sự phát triển nhanh chóng của Trung Quốc, thì cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine không những không mang lại những cơ hội đó mà còn gây ra thách thức lớn cho sự phát triển của Trung Quốc. Xung đột Nga-Ukraine và sự tham gia của Mỹ vào cuộc xung đột không làm giảm áp lực bên ngoài của Trung Quốc, cũng không mang lại không gian mới cho sự phát triển chiến lược, mà hoàn toàn ngược lại. Do đó, lợi ích cơ bản của Trung Quốc là dập tắt chiến tranh càng sớm càng tốt.
Trong bối cảnh xung đột giữa Nga và Ukraine hiện đang ở giai đoạn gay gắt, hòa giải bên ngoài sẽ không thể phát huy vai trò thiết thực. Tuy nhiên, trước khi có thể hòa giải, Trung Quốc có thể thực hiện nhiều hành động hơn trong các cơ chế hợp tác đa phương để kêu gọi Nga và NATO kiềm chế và hòa dịu quân sự, đặc biệt có thể thảo luận về sáng kiến hòa bình công bằng với Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Brazil, Nam Phi và các nước khác hoặc có thể cố gắng hợp tác với Mỹ, Liên minh Châu Âu và các nước phương Tây để thảo luận về các cách thúc đẩy an ninh chung của tất cả các bên liên quan, nhằm thực hành khái niệm an ninh “chung, toàn diện, hợp tác và bền vững” do Trung Quốc đề xuất, nhằm thúc đẩy quá trình dập tắt ngọn lửa chiến tranh ở mức độ lớn nhất.
Thứ hai, cố gắng không tham gia vào tất cả các xung đột có liên quan. Chỉ bằng cách hoàn toàn đứng ngoài cuộc mới có thể giữ vững vị trí của Trung Quốc với vai trò là một trong những lực lượng trung gian quan trọng nhất đối với việc kết thúc xung đột Nga-Ukraine. Đồng thời, sau chiến tranh, Trung Quốc có thể gánh vác trách nhiệm của một cường quốc có trách nhiệm ở mức độ lớn hơn, đồng thời cũng có thể giúp đất nước tránh khỏi những mối đe dọa nghiêm trọng hơn từ phương Tây.
Thứ ba, làm hết sức mình để giải quyết các tác động do xung đột giữa Nga và Ukraine gây ra, đồng thời thúc đẩy giải quyết các vấn đề toàn cầu có liên quan, bao gồm kiên quyết phản đối việc sử dụng vũ khí hạt nhân và đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân, cũng như các cuộc tấn công vào các cơ sở hạt nhân; Thúc đẩy giải quyết các vấn đề người tị nạn và thảm họa nhân đạo trong các thể chế đa phương; thúc đẩy hoạt động sản xuất lương thực của Ukraine, tránh khỏi các tác động của xung đột quân sự càng nhiều càng tốt và thúc đẩy giải quyết các vấn đề an ninh lương thực toàn cầu; thông qua các nỗ lực đa phương, song phương, thảo luận và tăng cường phát triển năng lượng toàn cầu (bao gồm cả năng lượng xanh), cải thiện cơ cấu thương mại năng lượng toàn cầu, v.v.
Thứ tư, tiếp tục giương cao ngọn cờ mở cửa với thế giới bên ngoài, mở rộng mở cửa thị trường Trung Quốc, phản đối trật tự quốc tế lưỡng cực kiểu Chiến tranh Lạnh, phản đối chia rẽ kinh tế cũng như hành động cấm vận, phản đối việc gây áp lực buộc bên thứ ba phải đứng về phía mình, tiếp tục bảo vệ thẩm quyền của Tổ chức Thương mại Thế giới và Liên Hợp Quốc, thúc đẩy đàm phán các khu vực thương mại tự do nước ngoài và thúc đẩy sự phát triển không ngừng của toàn cầu hóa kinh tế.
Thứ năm, đoàn kết các lực lượng yêu chuộng hòa bình của cộng đồng quốc tế, phản đối chạy đua vũ trang, nhất là phổ biến vũ khí hạt nhân, tăng cường hiệu lực của cơ chế quốc tế chống phổ biến vũ khí hạt nhân, thúc đẩy việc tổ chức Diễn đàn hòa bình thế giới, tạo động lực cho cộng đồng quốc tế phát triển hòa bình, đưa lời kêu gọi hòa bình trở thành dòng dư luận chủ đạo của cộng đồng quốc tế.
Ở một mức độ nào đó, những thách thức mà Trung Quốc phải đối mặt trong cuộc xung đột Nga-Ukraine cũng là những thách thức mà nhiều nước đang phát triển vừa và nhỏ phải đối mặt. Khi ứng phó với các thách thức nêu trên, Trung Quốc có thể cùng với cộng đồng quốc tế duy trì và thúc đẩy một cộng đồng toàn cầu ổn định, thịnh vượng hơn, cùng chung một tương lai./.
Biên dịch: Hoàng Hải
Về tác giả: Jian Junbo, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Quan hệ Trung Quốc – Châu Âu của Đại học Phúc Đán; Phó Tổng thư ký Viện Châu Âu Thượng Hải.
Các hướng nghiên cứu chính: Chính trị và quan hệ đối ngoại EU, quan hệ Trung Quốc – EU, ngoại giao Trung Quốc, lý luận chính trị quốc tế..
Nguồn: 简军波, 经济、周边安全、核扩散风险……俄乌冲突对中国的这些挑战怎么破, 澎湃新闻 ∙ 外交学人, 3.3.2023.