Nghiên Cứu Chiến Lược
  • Trang Chủ
  • Lĩnh vực
    • Kinh tế
    • Xã hội
    • Quốc phòng – an ninh
    • Chính trị
  • Khu vực
    • Châu Á
    • Châu Âu
    • Châu Mỹ
    • Châu Phi
    • Châu Đại Dương
  • Phân tích
    • Ý kiến độc giả
    • Chuyên gia
  • Thư viện
    • Sách
    • Tạp chí
    • Media
  • Podcasts
  • Giới thiệu
    • Ban Biên tập
    • Dịch giả
    • Đăng ký cộng tác
    • Thông báo
No Result
View All Result
  • Trang Chủ
  • Lĩnh vực
    • Kinh tế
    • Xã hội
    • Quốc phòng – an ninh
    • Chính trị
  • Khu vực
    • Châu Á
    • Châu Âu
    • Châu Mỹ
    • Châu Phi
    • Châu Đại Dương
  • Phân tích
    • Ý kiến độc giả
    • Chuyên gia
  • Thư viện
    • Sách
    • Tạp chí
    • Media
  • Podcasts
  • Giới thiệu
    • Ban Biên tập
    • Dịch giả
    • Đăng ký cộng tác
    • Thông báo
No Result
View All Result
Nghiên Cứu Chiến Lược
No Result
View All Result
Home Lĩnh vực Chính trị

Sáng kiến Quản trị Toàn cầu của Trung Quốc: Tham vọng định hình trật tự thế giới hay biểu tượng của Ngoại giao Sáng kiến?

01/10/2025
in Chính trị, Phân tích
A A
0
Sáng kiến Quản trị Toàn cầu của Trung Quốc: Tham vọng định hình trật tự thế giới hay biểu tượng của Ngoại giao Sáng kiến?
0
SHARES
23
VIEWS
Share on FacebookShare on Twitter

Trong vài năm trở lại đây, Trung Quốc liên tục đưa ra các sáng kiến toàn cầu, từ Vành đai và Con đường, Sáng kiến Phát triển Toàn cầu, Sáng kiên An ninh Toàn cầu, Sáng kiến Văn minh Toàn cầu và cho tới nay là Sáng kiến Quản trị Toàn cầu. Mỗi sáng kiến đều đi kèm với một hệ diễn ngôn mang tính biểu tượng, những hội nghị quốc tế quy mô lớn và những lời kêu gọi “hợp tác cùng thắng”, qua đó Bắc Kinh tìm cách đặt dấu ấn vào các cuộc thảo luận về tương lai trật tự thế giới. Song, đằng sau sự hào nhoáng của ngôn từ, câu hỏi căn bản bản vẫn đang trong quá trình kiểm nghiệm rằng liệu đây có phải là bước ngoặt chiến lược giúp Trung Quốc định hình chuẩn mực và luật chơi quốc tế mới, hay chỉ là sự tiếp nối logic quen thuộc của “ngoại giao sáng kiến” thiên về quảng bá và biểu tượng hơn là những thay đổi thực chất trong cục diện toàn cầu?

‘Ngoại giao sáng kiến’ như công cụ diễn ngôn quyền lực

Trong vài năm trở lại đây, Trung Quốc đã thể hiện những bước đi mới trong ngoại giao, phản ánh một quá trình đổi mới sâu rộng nhất kể từ sau thời kỳ cải cách và mở cửa. Sự đổi mới này không phải là sự đứt gãy hoàn toàn những tư tưởng cũ, mà là sự điều chỉnh chiến lược trong khuôn khổ những nguyên tắc nền tảng vốn được duy trì lâu dài. Bắc Kinh tìm cách định hình bản sắc ngoại giao riêng, điều chỉnh tư duy chiến lược, củng cố thiết chế đối ngoại, đa dạng hóa công cụ và phương pháp triển khai.

Các định hướng cốt lõi như phát triển kinh tế vẫn là trung tâm của chương trình nghị sự đối ngoại, chính sách đối tác phi liên minh tiếp tục được duy trì, cũng như nguyên tắc bình đẳng chủ quyền và kiềm chế sử dụng vũ lực vẫn đóng vai trò kim chỉ nam. Nói cách khác, Trung Quốc ưu tiên cải tiến thay vì cách mạng ngoại giao. Kể từ khi cải cách mở cửa từ năm 1978 Trung Quốc luôn duy trì một phong cách ngoại giao vô cùng khéo léo, tận dụng cơ hội nhằm thu hẹp khoảng cách và thật sự độc đáo, phản ánh cách nước này kết hợp văn hóa, thể thao và biểu tượng quốc gia vào chiến lược đối ngoại. Nếu như “ngoại giao bóng bàn” đầu thập niên 1970 trở thành chất xúc tác lịch sử mở đường cho bình thường hóa quan hệ Trung – Mỹ[1], thì “ngoại giao gấu trúc”[2] lại đóng vai trò biểu tượng mềm mại của hữu nghị, giúp Trung Quốc gây dựng hình ảnh thân thiện với cộng đồng quốc tế.

Tiếp nối tiến trình đó, một hình thức mới đã nổi lên tạo ra những thay đổi căn bản và tác động không nhỏ đến quá trình hợp tác đa phương toàn cầu, là hình thức ngoại giao bằng các sáng kiến hay gọi một cách cô đọng theo kiểu thuật ngữ hơn thì là “Ngoại giao sáng kiến”[3]. Thuật ngữ này cũng đã được nhiều học giả nghiên cứu và xem đây như là đặc trưng của ngoại giao Trung Quốc thời đại mới.

Bằng cách thông qua việc liên tục đưa ra những đề xuất toàn cầu như Vành đai và Con đường (BRI) năm 2013, Sáng kiến Phát triển Toàn cầu (GDI) năm 2021, Sáng kiến An ninh Toàn cầu (GSI) năm 2022, Sáng kiến Văn minh toàn cầu (GCI) năm 2023 và gần đây tại Hội nghị Tổ chức hợp tác Thượng Hải mở rộng lần thứ 25 diễn ra ở Thiên Tân, Chủ tịch Tập Cận Bình tuyên bố Sáng kiến Quản trị Toàn cầu (GGI), điều này cho thấy, Bắc Kinh không chỉ củng cố hình ảnh một cường quốc đang trỗi dậy mà còn tìm cách mở rộng ảnh hưởng trên bàn cờ quốc tế bằng các công cụ mới mang tính biểu tượng và thể chế hóa song hành. Đây không chỉ là một bước đi đối ngoại đầy sức nặng mà còn phản ánh rõ khát vọng và ý chí của Trung Quốc trong việc khẳng định vị thế cường quốc, qua đó từng bước định hình vai trò trung tâm của mình trong cấu trúc trật tự quốc tế đang chuyển dịch.

 Với những đổi mới ngoại giao này, Trung Quốc đang khẳng định những giá trị ngoại giao nước lớn mang đậm bản sắc Trung Quốc, hướng đến trở thành một kiểu cường quốc mới và đặc biệt có thể nhìn nhận đây như là một chiến dịch vận động quốc tế nhằm thúc đẩy cải cách hệ thống quản trị toàn cầu, mở rộng ảnh hưởng quốc tế của Trung Quốc, nhất là ở các nước đang phát triển với mục tiêu tập hợp lực lượng và nâng cao tính chính danh lãnh đạo toàn cầu của mình, hơn thế nữa là phục vụ mục tiêu cạnh tranh với quan niệm của Hoa Kỳ về trật tự quốc tế tự do dựa trên luật lệ.

“Ngoại giao sáng kiến” đã và đang nổi lên như một trong những công cụ đặc trưng trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc, phản ánh không chỉ nỗ lực định vị bản thân như một nhà cung cấp giải pháp toàn cầu mà còn hàm chứa ý đồ sâu xa về kiến tạo diễn ngôn và chuẩn mực quốc tế. Việc Bắc Kinh liên tục tung ra những gói ý tưởng cho thấy sự hình thành một mô hình ngoại giao dựa trên sáng kiến như dạng thức ngôn ngữ và chiến lược quyền lực. Ở đây, sáng kiến không đơn thuần chỉ là một khẩu hiệu, mà là sự kết hợp giữa diễn ngôn, thể chế và công cụ hành động, nhằm đưa Trung Quốc vào vị thế người kiến tạo luật chơi trong bối cảnh trật tự quốc tế đang dịch chuyển.

Bản chất khái niệm “sáng kiến” trong ngoại giao Trung Quốc có thể được giải thích như một cấu trúc ba tầng:

Thứ nhất là lớp diễn ngôn, nơi Bắc Kinh tận dụng những khái niệm gợi tính phổ quát như “đa phương thực chất”, “chủ quyền bình đẳng”, “lấy người làm trung tâm” để định nghĩa vấn đề toàn cầu và đưa ra cách diễn đạt phản ánh lợi ích, ưu tiên của mình.

Thứ hai là lớp thể chế, bao gồm các cơ chế hợp tác song phương và đa phương, từ “nhóm bạn bè” của GDI tại Liên Hợp Quốc đến mạng lưới dự án kết nối dưới BRI.

Thứ ba là lớp công cụ hành động, thể hiện qua những cam kết nguồn lực và dự án cụ thể như đầu tư hạ tầng, viện trợ y tế, hỗ trợ công nghệ hay gần đây là đề xuất thành lập một tổ chức hợp tác về trí tuệ nhân tạo toàn cầu.

Sự kết hợp ba yếu tố này biến sáng kiến thành một cấu trúc với thiết chế linh hoạt có khả năng tác động đến hành vi và chuẩn mực quốc tế, chứ không chỉ dừng lại ở một khẩu hiệu ngoại giao.

Trong hệ thống các sáng kiến mà Trung Quốc đưa ra, GGI có vị trí đặc biệt bởi nó được trình bày như một nỗ lực tổng hợp và hệ thống hóa những khuôn khổ trước đó thành một khung quản trị toàn cầu có tính bao trùm. Đây được xem như là một đề xuất toàn diện nhằm cải cách hệ thống quốc tế. GGI không phải là một khái niệm độc lập mà là đỉnh cao của một loạt các khuôn khổ chiến lược được khởi động từ trước. Nếu BRI tập trung vào hạ tầng và kết nối, GDI hướng đến hợp tác phát triển, GSI nhấn mạnh các nguyên tắc an ninh mới, GCI tìm cách kiến tạo “câu chuyện văn minh”, thì GGI lại tự định vị ở tầm cao hơn, như một sáng kiến mang tính meta nhằm lồng ghép, điều phối và nâng cấp toàn bộ các diễn ngôn này.

Nó cung cấp một hệ điều hành bao quát báo hiệu sự chuyển dịch trong tham vọng của Trung Quốc từ một nhân tố chủ chốt trong trật tự toàn cầu hiện tại sang một kiến ​​trúc sư của một trật tự mới. Cách thức GGI được giới thiệu cũng phản ánh chiến lược của Bắc Kinh muốn khẳng định vai trò trung tâm của Liên Hợp Quốc, thúc đẩy cải cách thể chế quốc tế, và đặt Trung Quốc vào vị thế vừa kế thừa vừa bổ sung cho trật tự toàn cầu hiện hữu.

Tuy nhiên, để hiểu rõ ý nghĩa này, cần đặt GGI trong quỹ đạo của những sáng kiến đi trước. Thực tế cho thấy BRI dù từng được mô tả là “dự án thế kỷ” nhưng gặp nhiều hạn chế về nợ xấu, tính minh bạch và hiệu quả, làm dấy lên hoài nghi từ các đối tác. GDI được quảng bá như một cam kết cung cấp hàng hóa công toàn cầu nhưng thiếu cơ chế thực thi rõ ràng, chủ yếu dựa trên “nhóm bạn bè” tại Liên Hợp Quốc mà hiệu quả còn chưa kiểm chứng. GSI cũng mới dừng ở tầng diễn ngôn, chưa hình thành một cấu trúc an ninh thực chất ngoài một số diễn đàn đối thoại. Điều này cho thấy ngoại giao sáng kiến của Trung Quốc mang tính hai lớp, ở lớp biểu tượng, chúng có sức mạnh định hình câu chuyện, đặt vấn đề và thu hút chú ý, song ở lớp thực chất, chúng vẫn bị giới hạn bởi nguồn lực, mức độ chấp nhận của đối tác và tính minh bạch trong quản trị. Chính trong bối cảnh đó, Sáng mới đây vừa mang dáng dấp một dự án lý luận nhằm hợp thức hóa toàn bộ tiến trình này, vừa bộc lộ tham vọng biến ngoại giao sáng kiến thành công cụ định hình tư duy và ý thức hệ mới trong quản trị toàn cầu.

Điều này càng khiến dư luận nghi ngờ tính thực chất của Sáng kiến mới này. Ở một khía cạnh, GGI khác biệt bởi nó không chỉ đưa ra một lĩnh vực cụ thể mà hướng tới xây dựng một khung tổng hợp, bao quát cả phát triển, an ninh và văn minh. Việc Bắc Kinh nhấn mạnh đến cải cách thể chế quốc tế, đặc biệt là thông qua Liên Hợp Quốc, cũng cho thấy GGI mang tầm tham vọng lớn hơn, không chỉ ở cấp độ chính sách mà ở cấp độ định hình chuẩn mực toàn cầu. Nhưng mặt khác, chính sự bao trùm quá rộng lại khiến GGI đối mặt nguy cơ rơi vào tính khái quát mơ hồ, thiếu trọng tâm và dễ trở thành một tuyên ngôn kêu gọi hơn là một chương trình có tính ràng buộc. Hơn nữa, những điều kiện cần thiết để GGI trở nên khác biệt và có sức nặng thực chất vẫn chưa được bảo đảm cơ chế ràng buộc minh bạch, nguồn lực tài chính bền vững, hệ thống giám sát độc lập, và đặc biệt là sự chấp nhận từ cộng đồng quốc tế, trong đó có các quốc gia lớn và các tổ chức tài chính toàn cầu.

Điều quan trọng là khi Bắc Kinh thúc đẩy ngoại giao sáng kiến, điều họ đang thực hiện không chỉ là tạo ra các giải pháp thay thế, mà còn là một chiến lược cạnh tranh về diễn ngôn và quyền lực mềm. Việc nhấn mạnh đến những khái niệm như “công bằng”, “bình đẳng”, “đa phương thực chất” chính là nhằm thách thức sự chính danh của trật tự do phương Tây dẫn dắt, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của các nước đang phát triển vốn cảm thấy bị gạt ra ngoài trong quá trình toàn cầu hóa. Chính vì thế, GGI được nhấn mạnh như là bổ sung cho các khuôn khổ do Trung Quốc đề xuất trước đó, mỗi khuôn khổ được thiết kế như một hình thức lợi ích công cộng nhằm mục đích điều chỉnh sự mất cân bằng trong trật tự quốc tế và giải quyết các thiếu sót trong quản trị toàn cầu.

Bằng cách đưa ra những sáng kiến mang tính toàn cầu, Trung Quốc muốn thể hiện mình là người cung cấp hàng hóa thay vì chỉ là kẻ hưởng lợi như Phương Tây hay chỉ trích, qua đó củng cố tính chính danh quốc tế. Bắc Kinh nhấn mạnh, GGI nên được hiểu là một loại hàng hóa công cộng có hệ thống được Trung Quốc đưa vào trong kỷ nguyên mới để ứng phó với những thay đổi trong hệ thống quản trị toàn cầu. Nhưng đồng thời, ẩn dưới đó vẫn là logic cạnh tranh quyền lực, sử dụng sáng kiến như một công cụ tái phân bổ ảnh hưởng và tạo dựng không gian mặc cả với các trung tâm quyền lực truyền thống. Sáng kiến GGI như một lời kêu gọi của Trung Quốc trong việc cải cách hệ thống để nó trở nên “công bằng hơn, dân chủ hơn và hiệu quả hơn” dựa trên các nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp Quốc, trước bối cảnh chủ nghĩa đơn phương và chủ nghĩa bảo hộ đang ngày càng gia tăng, làm suy yếu hệ thống thương mại đa phương và xói mòn trật tự quốc tế, làm gia tăng sự thiếu hụt trong quản trị toàn cầu

Điều này càng thể hiện rõ tham vọng của Bắc Kinh khi muốn bước lên tầm cao mới trong việc kiến tạo luật chơi toàn cầu, nhưng đồng thời cũng đối mặt với những giới hạn cố hữu của mô hình sáng kiến đã nhiều lần bộc lộ. Vấn đề then chốt là đây có phải là một bước chuyển lớn trong hệ thống thể chế toàn cầu, hay rồi sẽ tiếp tục là một phần của chiến lược ngoại giao sáng kiến thiên về tuyên ngôn.

Tham vọng kiến tạo trật tự thông qua hợp tác đa phương

Trong bối cảnh trật tự quốc tế đang trải qua những biến chuyển sâu sắc, sáng kiến Quản trị Toàn cầu của Trung Quốc xuất hiện, được xem như một nỗ lực mới nhằm tái định vị vai trò của Bắc Kinh trong không gian toàn cầu. Đồng thời phản ánh tham vọng của Trung Quốc trong việc định hình lại các chuẩn mực quốc tế, vốn từ lâu chịu sự chi phối của phương Tây. Việc phân tích sự vận hành của các công cụ này, cũng như cách chúng kết nối với các cơ chế đa phương cho thấy rằng sáng kiến không đơn thuần chỉ là khẩu hiệu ngoại giao, mà là một hình thức diễn ngôn quyền lực nhằm thúc đẩy sự chuyển dịch cán cân cấu trúc toàn cầu theo hướng có lợi cho Bắc Kinh. Tác động của những sáng kiến này lên trật tự thế giới là rõ rệt, có thể nhìn nhận ở những khía cạnh về trật tự kinh tế – thương mại, trật tự an ninh – chiến lược, và trật tự tư tưởng – chuẩn mực.

Ở khía cạnh công cụ kinh tế, Trung Quốc sử dụng chiến lược đầu tư hạ tầng và tài chính như trụ cột trung tâm để tạo dựng sự hấp dẫn. Thông qua BRI, Bắc Kinh đã xây dựng các dự án cơ sở hạ tầng mạnh mẽ, thúc đẩy mạng lưới giao thông, năng lượng và truyền thông. Giá trị hợp tác BRI kể từ năm 2013 đã đạt 1,175 nghìn tỷ đô la. Dữ liệu sơ bộ về hoạt động đầu tư tài chính và hợp tác theo hợp đồng của Trung Quốc đến năm 2024 tại các quốc gia tham gia BRI bao gồm khoảng 340 thỏa thuận trị giá 121,8 tỷ đô la, tăng 31% so với năm trước[4]. Dữ liệu của Ngân hàng Thế giới năm 2019 cho thấy các dự án hạ tầng vận tải nằm trong khuôn khổ BRI có tiềm năng giúp tăng GDP của các nước tham gia lên tới 3,35% tùy vào mức độ kết nối hạ tầng và nâng phúc lợi bao gồm chi phí của cơ sở hạ tầng lên tới khoảng 2,81%[5].

Hệ thống đường sắt Trung Quốc – Lào, cảng Gwadar tại Pakistan hay các dự án năng lượng tái tạo ở châu Phi cho thấy tác động vật chất rõ rệt, giúp cải thiện hạ tầng của nhiều quốc gia. Ngoài các dự án hạ tầng, Bắc Kinh còn khai thác hệ thống ngân hàng chính sách như Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc (China Exim Bank) và Ngân hàng Phát triển Trung Quốc (CDB), cùng các quỹ như Quỹ Con đường Tơ lụa để cung cấp tín dụng ưu đãi. Theo thống kê của AidData – Global Chinese Development Finance Dataset, giai đoạn 2000 – 2017 ghi nhận 13.427 dự án được Trung Quốc hỗ trợ vay và tài trợ ở 165 quốc gia/các vùng thu nhập thấp và trung bình, tổng giá trị khoảng 843 tỷ USD[6], vượt xa nhiều nhà tài trợ truyền thống. Giai đoạn 2018 – 2021, thì các giá trị cam kết của Trung Quốc đã tăng mạnh, rơi vào khoảng 1,34 nghìn tỷ USD cho xấp xỉ 20.985 dự án[7].

Tác động của BRI không chỉ dừng ở các công trình vật chất, mà còn tạo ra một mạng lưới phụ thuộc tài chính và thương mại, đặt Bắc Kinh vào vị trí then chốt trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Tuy vậy, mặt trái cũng hiện rõ nhiều quốc gia tham gia BRI lâm vào tình trạng nợ công cao, ví dụ Sri Lanka phải cho Trung Quốc thuê cảng Hambantota trong 99 năm khi không trả được nợ[8] và đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng chính trị lớn nhất tại nước này năm 2022. Điều này làm dấy lên lo ngại về “ngoại giao bẫy nợ”, khiến nhiều nước như Malaysia, Kenya hay Kazakhstan điều chỉnh hoặc hủy bỏ một số dự án. Như vậy, BRI vừa giúp Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng kinh tế, vừa tạo ra rạn nứt trong lòng trật tự tài chính quốc tế vốn được định hình bởi WB và IMF.

Song song với BRI, các công cụ tài chính khác như Ngân hàng Đầu tư Hạ tầng châu Á (AIIB) hay Quỹ Con đường Tơ lụa cũng cho thấy xu hướng Trung Quốc thay thế thể và quyết tâm thay thế trật tự của mình. AIIB hiện có 110 thành viên, bao gồm cả các nước châu Âu như Anh, Đức, Pháp, và đã giải ngân hàng chục tỷ USD cho các dự án hạ tầng[9]. Việc phương Tây, dù dè dặt, vẫn tham gia AIIB, cho thấy ảnh hưởng gia tăng của Trung Quốc trong lĩnh vực tài chính toàn cầu. Mặc dù AIIB chưa thể so sánh về quy mô với WB hay ADB, sự tồn tại của nó tạo nên đa trung tâm tài chính, thách thức vị trí độc tôn của các thể chế do Mỹ và Nhật dẫn dắt. Đây là một ví dụ điển hình về tác động cấu trúc của sáng kiến Trung Quốc đối với trật tự kinh tế quốc tế.

Nói một cách khách quan, tham vọng của Bắc Kinh vừa mang tính biểu tượng vừa có hàm ý thực chất. Về mặt biểu tượng, sáng kiến này củng cố hình ảnh Trung Quốc như người khởi xướng ý tưởng toàn cầu, giúp Bắc Kinh thoát khỏi thế phòng ngự trước cáo buộc “thụ hưởng nhưng không đóng góp” vào trật tự quốc tế. Về mặt thực chất, mức độ khả thi của GGI phụ thuộc vào các yếu tố thiết yếu như nguồn lực tài chính, sự chấp nhận của cộng đồng quốc tế, và tính hiệu quả trong triển khai. Nhưng trên hết nó đang phát huy tốt vai trò của nó ở khía cạnh mang đến hình ảnh một Trung Quốc mạnh mẽ trên trường quốc tế.

Song song với nền tảng kinh tế, công cụ ngoại giao đa phương được Trung Quốc triển khai nhằm tạo dựng không gian chính trị mới cho các quốc gia phương Nam toàn cầu. Tại Liên Hợp Quốc, Trung Quốc không chỉ thúc đẩy GDI như khung hợp tác để hiện thực hóa Chương trình Nghị sự 2030 về phát triển bền vững, mà còn xây dựng các “nhóm bạn bè GDI”, tập hợp hơn 70 quốc gia thành viên[10]. Cách tiếp cận này vừa cho phép Bắc Kinh phô diễn hình ảnh người cung cấp hàng hóa công toàn cầu, vừa tạo ra một liên minh mềm chống lại sự độc quyền diễn ngôn của phương Tây.

Ở bình diện khu vực và liên khu vực, Trung Quốc khai thác Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO) như nền tảng hợp tác an ninh và kinh tế tại Á – Âu, đồng thời coi BRICS và quá trình mở rộng BRICS+ là công cụ xây dựng sân chơi chính trị thay thế. Trên thực tế, các tổ chức diễn đàn này có vai trò cực kỳ lớn trong việc tạo dựng sức mạnh và tận dụng ảnh hưởng của Trung Quốc. Việc BRICS+ năm 2023 kết nạp thêm 6 quốc gia, trong đó có Ả Rập Xê Út, UAE, Iran và Argentina, phản ánh rõ xu hướng gia tăng vai trò của Bắc Kinh trong việc tập hợp lực lượng từ các cường quốc năng lượng đến các nền kinh tế mới nổi, giúp tỷ lệ GDP toàn cầu theo PPP của BRICS đã lên tới khoảng 39% trong năm 2023[11]. Trong khi đó, riêng BRICS với 11 nước thành viên, không tính BRICS+ đã chiếm khoảng 40 – 41% GDP của toàn cầu theo PPP, trong khi nhóm G7 chỉ chiếm khoảng 28 – 29% trong cùng dữ liệu từ IMF[12]. Nếu tính cả nhóm BRICS+ bao gồm thành viên và đối tác thì con số này có thể lên khoảng 43 – 44% GDP toàn cầu (PPP)[13].

Trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược Mỹ – Trung, câu hỏi cốt lõi là liệu Trung Quốc có đủ năng lực để gánh vác vai trò người thiết kế luật chơi hay không. Nhất là khi Phương Tây hiện vẫn duy trì ưu thế rõ rệt về các thể chế toàn cầu như WTO, IMF, WB hay G7, vốn định hình phần lớn các quy tắc kinh tế và tài chính quốc tế. Trong khi đó, nỗ lực mở rộng SCO và BRICS+ phản ánh chiến lược tạo không gian chính trị cho các quốc gia Global South, song mức độ thể chế hóa còn hạn chế. Việc nhiều quốc gia tham gia BRICS+ cho thấy sức hút biểu tượng của một diễn đàn thay thế, nhưng liệu nó có trở thành cơ chế hoạch định chính sách toàn cầu hay chỉ dừng ở mức tuyên bố chính trị thì vẫn là một thử thách lớn của Trung Quốc.

Công cụ tư tưởng và định danh đóng vai trò then chốt trong việc biến sáng kiến thành diễn ngôn quyền lực. Trung Quốc chủ động xuất bản hàng loạt các đề cương về khái niệm để giải thích nội hàm sáng kiến, đồng thời tổ chức các diễn đàn quốc tế, từ Diễn đàn Vành đai và Con đường ở Bắc Kinh đến các hội nghị về GDI và GSI. Những văn kiện này được quảng bá mạnh mẽ bởi mạng lưới truyền thông đối ngoại như Global Times, China Daily, cũng như các viện nghiên cứu thân chính phủ như Viện Nghiên cứu Quốc tế Trung Quốc (CIIS). Chiến lược này phản ánh tham vọng của Bắc Kinh trong việc xây dựng một nền tảng lý luận thay thế cho trật tự tự do dựa trên luật lệ truyền thống của phương Tây, dựa trên các nguyên tắc như không can thiệp vào công việc nội bộ, tôn trọng con đường phát triển riêng của mỗi nước và an ninh chung không chia cắt, phát triển không gắn điều kiện chính trị, an ninh dựa trên tôn trọng chủ quyền, và văn minh dựa trên sự đa dạng thay vì phổ quát hóa các giá trị dân chủ tự do. Chính ở khía cạnh này, ngoại giao sáng kiến trở thành một dạng “quyền lực ngôn ngữ” cho phép Trung Quốc thách thức sự áp đặt chuẩn mực từ bên ngoài và đồng thời củng cố tính chính danh cho vai trò lãnh đạo của mình.

Sự khác biệt rõ rệt là ở chỗ các sáng kiến của phương Tây thường đi kèm điều kiện chính trị và thể chế hóa cao, trong khi sáng kiến Trung Quốc nhấn mạnh linh hoạt và tôn trọng mô hình riêng của mỗi nước. Chính điểm này giúp Trung Quốc dễ dàng tiếp cận các quốc gia Global South, vốn nhiều lần bất mãn với sự áp đặt điều kiện dân chủ – nhân quyền từ các định chế phương Tây. Song, chính sự mở này cũng khiến các sáng kiến của Bắc Kinh bị nghi ngờ về tính minh bạch, khả năng kiểm chứng và mức độ bền vững.

Ở chiều an ninh, dù Trung Quốc không trực tiếp mở rộng các liên minh quân sự như Mỹ và NATO, nhưng thông qua Sáng kiến An ninh Toàn cầu (GSI), là minh chứng cho tham vọng kiến tạo một khung an ninh khác biệt với mô hình liên minh quân sự kiểu NATO, Bắc Kinh đẩy mạnh hợp tác về an ninh phi truyền thống như chống khủng bố, an ninh mạng, y tế toàn cầu và biến đổi khí hậu. Các cuộc tập trận chung trong khuôn khổ SCO, hay việc Trung Quốc tích cực tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc với việc đóng góp khoảng 2.200 binh sĩ, đứng đầu trong số các nước thường trực Hội đồng Bảo an, phản ánh nỗ lực xây dựng hình ảnh cường quốc an ninh có trách nhiệm. Thêm vào đó, việc Bắc Kinh đề cao nguyên tắc “an ninh không chia cắt” nhằm đối trọng với chiến lược liên minh nhỏ của Mỹ ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương cho thấy sự tinh vi trong cách sử dụng hợp tác an ninh như công cụ chính trị. Tuy nhiên, hạn chế là GSI chưa tạo được cơ chế ràng buộc và chia sẻ an ninh tập thể, vốn là nền tảng của trật tự an ninh do phương Tây xây dựng. Trong khi NATO hay AUKUS tạo ra cam kết phòng thủ chung, GSI mới dừng ở tuyên bố nguyên tắc.

Tất cả các công cụ này đều cho thấy sự gắn kết chặt chẽ giữa các sáng kiến với các thiết chế đa phương, tạo thành một mô hình định hình chuẩn mực mới. Nếu WTO, WB, IMF hay G7 phản ánh trật tự do phương Tây dẫn dắt, thì SCO, BRICS+ và GDI/GSI tại Liên Hợp Quốc là nỗ lực song song của Trung Quốc nhằm kiến tạo một không gian chuẩn mực thay thế. Các học giả phương Tây đa phần đều có xu hướng cho rằng sáng kiến này chưa đủ để phá vỡ hệ thống hiện có, bởi Trung Quốc vẫn phụ thuộc nhiều vào thương mại toàn cầu và các thể chế tài chính do phương Tây kiểm soát. Ngược lại, nhiều học giả Trung Quốc, lại khẳng định GGI là bước tiến nhằm xây dựng trật tự công bằng hơn phản ánh quyền lợi của Phương nam Toàn cầu.

Thông qua đó, có thể nhận định sáng kiến Quản trị Toàn cầu của Trung Quốc không chỉ đơn thuần là một khẩu hiệu ngoại giao, mà là sự kết hợp chặt chẽ và có hệ thống giữa kinh tế, ngoại giao, tư tưởng và an ninh để định hình lại trật tự thế giới theo hướng có lợi cho Bắc Kinh. Tham vọng này gắn liền với việc mở rộng không gian ảnh hưởng thông qua các công cụ do Bắc Kinh dẫn dắt. Tuy nhiên, mức độ thành công còn phụ thuộc vào khả năng Trung Quốc thuyết phục được cộng đồng quốc tế rằng đây là một sáng kiến mang tính bao trùm, không chỉ phục vụ cho lợi ích quốc gia hẹp của mình.

Một cách khách quan, có thể kết luận rằng hệ thống sáng kiến của Trung Quốc thể hiện cả hai đặc tính, chúng vừa là biểu tượng quyền lực mềm, vừa là công cụ ngoại giao – kinh tế có nền tảng vật chất nhất định. Nhưng việc chuyển hóa từ biểu tượng sang thay đổi cấu trúc thể chế toàn cầu là một quá trình phức tạp, đòi hỏi nguồn lực khổng lồ, sự đồng thuận quốc tế và khả năng vượt qua những nghi ngại chính đáng của cộng đồng toàn cầu. Trung Quốc đã chứng minh năng lực tạo ra diễn ngôn và thu hút sự chú ý, các sáng kiến này tuy còn nhiều hạn chế nhưng cũng cận nhìn nhận vào thực chất trật tự truyền thống của thế giới hiện nay, vốn đã được duy trì và chi phối bởi tiêu chuẩn Phương Tây mà đứng đầu là Mỹ từ nhiều thập kỷ, thì việc thay đổi và soán ngôi thì là một bài toán cực kỳ khó, nhất là trong bối cảnh đa phương nơi tất cả các quốc gia đều vươn lên khẳng định vị thế của mình. Vì vậy, chưa thể khẳng định các sáng kiến và GGI mới ra đời của Trung Quốc có thể thay đổi được trật tự truyền thống của thế giới hay không, nhưng có một điều khẳng định được luôn là chính những thứ này đang giúp Trung Quốc có vị thế và vị thế ấy ngày càng vững chắc hơn bao giờ hết, chính quá trình hợp tác đa phương đang từng bước đưa Trung Quốc xác lập quỹ đạo của riêng mình.

Trong cách nhìn của Tập Cận Bình, trọng tâm của cuộc chơi không phải là đối đầu quân sự mà là ngoại giao, dựa trên việc củng cố quan hệ với các đối tác truyền thống và mở rộng mạng lưới bạn bè mới trong tinh thần ôn hòa. Trong bối cảnh thế giới phân cực, một bên là xu thế hiếu chiến mà Mỹ hưởng lợi lớn nhờ xuất khẩu vũ khí, bên kia là mô hình hợp tác mà Trung Quốc thúc đẩy, nhấn mạnh đến đầu tư nhằm giải quyết nguyên nhân gốc rễ của xung đột, phát triển hạ tầng, tăng trưởng kinh tế và hướng tới thịnh vượng cùng hòa bình lâu dài.

Tác động lên trật tự thế giới

Đánh giá tổng thể, các sáng kiến của Trung Quốc đã tác động đến trật tự thế giới theo hướng tạo ra đa tuyến trong cạnh tranh thể chế. Trật tự do phương Tây dẫn dắt không còn duy nhất, khi ngày càng nhiều quốc gia có thêm lựa chọn hợp tác với Trung Quốc. Tuy nhiên, để chuyển từ mức độ đối trọng mềm sang khả năng thay thế thực chất, Bắc Kinh vẫn phải đối mặt với ba thách thức: i) nguồn lực tài chính ngày càng hạn chế trong bối cảnh kinh tế trong nước tăng trưởng chậm lại, ii) sự nghi ngờ từ cộng đồng quốc tế về động cơ chính trị, và iii) thiếu cơ chế thể chế hóa mạnh mẽ. Những thách thức này cho thấy trong tương lai gần, sáng kiến Trung Quốc có thể tiếp tục mở rộng ảnh hưởng, nhưng khó có thể lật đổ toàn bộ trật tự hiện tại.

Tác động lớn nhất có lẽ nằm ở việc làm sâu sắc thêm xu thế đa cực hóa và đa trung tâm trong quản trị toàn cầu. Nhờ sự nổi lên của Trung Quốc và các sáng kiến đa phương đi kèm, thế giới ngày càng tiến gần đến trạng thái đa trung tâm vượt lên khỏi những khuôn khổ của Phương Tây. Điều này không đồng nghĩa với sự sụp đổ của trật tự hiện tại, mà là sự bổ sung thêm những lớp cạnh tranh, mặc cả và thương lượng. Trật tự quốc tế đang dần chuyển từ một hệ thống đơn cực định chế hóa cao sang một trạng thái đa cực mềm, trong đó Trung Quốc nổi lên như một cực quan trọng nhưng chưa đủ sức thay thế hoàn toàn vai trò của phương Tây.

Tuy nhiên, chính tại điểm này cần đặt ra câu hỏi trung tâm rằng liệu Sáng kiến Quản trị Toàn cầu (GGI) có phải là một bước ngoặt thực sự trong quá trình kiến tạo trật tự mới, khi mang tính phổ quát và nhấn mạnh vào tính lãnh đạo – quản trị hay nó chỉ đơn thuần là một biểu tượng nối dài quỹ đạo ngoại giao sáng kiến mà Bắc Kinh đã theo đuổi suốt thập kỷ qua? Cách đặt câu hỏi này quan trọng bởi nó cho phép phân biệt giữa một sáng kiến mang tính đột phá có khả năng thay đổi cấu trúc, với một công cụ mang tính diễn ngôn chủ yếu nhằm củng cố vị thế chính trị và nâng cao tầm vóc ngoại giao. GGI về mặt hình thức được thiết kế để bao trùm hơn các sáng kiến trước, khi nó trực diện nhắm đến khái niệm “governance” được hiểu là quản trị công hay quản trị điều hành – một khái niệm trung tâm trong chính trị quốc tế hiện đại. Nhưng về nội hàm, nhiều điểm vẫn gợi nhắc đến các khẩu hiệu quen thuộc vốn đã xuất hiện trong các sáng kiến trước đó, khiến nó còn nhiều đắn đo về tính thực chất.

Để trả lời câu hỏi trên, một cách tiếp cận hữu ích là phân tích đồng thời trên hai bình diện là ý đồ chiến lược và tính khả thi thực tế. Ở bình diện ý đồ chiến lược, GGI rõ ràng là nỗ lực của Bắc Kinh nhằm khẳng định vai trò lãnh đạo trong việc định hình chuẩn mực toàn cầu, với mục tiêu dài hạn là giảm lệ thuộc vào phương Tây trong các lĩnh vực kinh tế, an ninh và tư tưởng. Nó phản ánh khát vọng chiến lược của Trung Quốc không chỉ muốn trở thành cường quốc kinh tế, mà còn muốn trở thành trung tâm trong quản trị toàn cầu, tương tự như cách Mỹ từng làm sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhưng ở bình diện tính khả thi, vẫn còn nhiều nghi vấn. Nền kinh tế Trung Quốc đang chịu áp lực lớn từ tăng trưởng chậm lại, nợ công trong nước, và sự suy giảm niềm tin từ các nhà đầu tư quốc tế. Về đối ngoại, không ít quốc gia tuy tham gia các sáng kiến của Trung Quốc nhưng đồng thời vẫn duy trì liên kết chặt chẽ với thể chế phương Tây, vừa để cân bằng lợi ích, vừa để tránh lệ thuộc. Các trường hợp rút lui, đàm phán lại hoặc trì hoãn dự án trong khuôn khổ BRI đã minh chứng cho hạn chế này.

Chính sự chênh lệch giữa ý đồ và tính khả thi khiến tác động của GGI và các sáng kiến liên quan trở nên phức tạp. Nếu chỉ nhìn vào diễn ngôn, Trung Quốc dường như đang bước vào giai đoạn dẫn dắt trật tự mới. Nhưng nếu xét đến yếu tố thực tế, thì sức mạnh để biến diễn ngôn thành cấu trúc vẫn còn hạn chế. Điều này cũng có nghĩa là GGI có thể vừa là biểu tượng vừa là công cụ thực chất, biểu tượng trong việc củng cố vị thế chính trị và định danh ngoại giao, nhưng thực chất ở những lĩnh vực mà Trung Quốc có nguồn lực đủ mạnh như hạ tầng, thương mại, hay hợp tác phát triển công nghệ.

Tác động của GGI và hệ thống sáng kiến Trung Quốc lên trật tự thế giới cần được nhìn nhận trong tính hai mặt. Một mặt, chúng đóng góp vào xu thế đa cực hóa, tạo không gian mặc cả mới cho các quốc gia, và khẳng định Bắc Kinh như một cực quyền lực toàn cầu. Mặt khác, những giới hạn về nguồn lực, sự nghi ngờ từ cộng đồng quốc tế, và thiếu các thể chế thay thế hoàn chỉnh cho thấy đây vẫn chưa phải là bước ngoặt đủ sức thay đổi căn bản trật tự quốc tế. Do đó, đánh giá GGI cần tránh cả sự cường điệu hóa lẫn xem nhẹ, thay vào đó, cần tiếp cận từ nhiều khía cạnh và dựa trên bằng chứng thực tế có so sánh đối chiếu để đo lường khả năng biến tham vọng đó thành những thay đổi cấu trúc thực sự.

Dự báo tương lai

Trong thập niên tới, triển vọng của Sáng kiến Quản trị Toàn cầu (GGI) và hệ thống các sáng kiến đa phương của Trung Quốc có thể được dự báo theo ba kịch bản chính, dựa trên tình hình thực tế trong nước, môi trường quốc tế và chiến lược đối ngoại của Bắc Kinh.

Thứ nhất, ở kịch bản mở rộng ảnh hưởng, Trung Quốc sẽ tiếp tục sử dụng GGI như công cụ khung để bao trùm và kết nối các sáng kiến trước đó. Việc dồn sáng kiến vào một hệ sinh thái giúp Bắc Kinh gia tăng tính liên kết và tránh sự phân tán, đồng thời khẳng định rằng họ không chỉ đề xuất từng dự án riêng lẻ mà đang kiến tạo một mô hình thay thế có tính toàn diện. Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã thể hiện sự chủ động kết hợp các sáng kiến này trong diễn ngôn ngoại giao. Ví dụ, tại Diễn đàn Vành đai và Con đường năm 2023, nhiều văn kiện đã nhắc tới việc gắn kết BRI với GDI và GSI như một bộ khung phát triển – an ninh thống nhất. Nếu xu hướng này tiếp diễn, GGI có thể trở thành nhãn hiệu tổng cho toàn bộ quỹ đạo ngoại giao sáng kiến của Trung Quốc, đặc biệt nó lại ra đời trong bối cảnh của Hội nghị mở rộng Tổ chức hợp tác Thượng Hải, kỷ niệm 25 năm thành lập và là lần hiếm hoi có sự xuất hiện chung của các cường quốc như Nga, Ấn Độ khiến sáng kiến này càng thêm những tín hiệu về một sự chuyển biến mạnh mẽ trong cục diện trật tự thế giới.

Thứ hai, xét về nền tảng kinh tế, Trung Quốc vẫn giữ vị trí cường quốc sản xuất hàng đầu thế giới, với GDP năm 2024 đạt khoảng 134,9084 nghìn tỷ NDT tương đương 18,77 nghìn tỷ USD, chiếm 18% kinh tế toàn cầu[14]. Tuy nhiên, gần đây tốc độ tăng trưởng có xu hướng chậm lại so với mức hai con số giai đoạn trước 2010. Trong bối cảnh này, Bắc Kinh khó có thể duy trì cường độ tài chính cho các sáng kiến toàn cầu như giai đoạn đầu của BRI. Thay vì tập trung vào các dự án hạ tầng khổng lồ, dự báo trong tương lai Trung Quốc sẽ chuyển hướng sang những lĩnh vực ít tốn kém hơn nhưng hiệu quả ngoại giao cao, như chuyển đổi số, năng lượng tái tạo, trí tuệ nhân tạo và y tế cộng đồng. Điều này phù hợp với GGI khi nó nhấn mạnh quản trị thay vì chỉ đầu tư, cho phép Bắc Kinh đóng vai trò định hình khung khái niệm thay vì chỉ chi tiền cho dự án cụ thể.

Thứ ba, trong bối cảnh cạnh tranh Mỹ  – Trung tiếp tục căng thẳng, GGI có thể trở thành công cụ mặc cả quan trọng. Washington đang thúc đẩy các sáng kiến như Partnership for Global Infrastructure and Investment (PGII) hay Indo-Pacific Economic Framework (IPEF) không phải hiệp định thương mại tự do (FTA) mà là một khuôn khổ hợp tác kinh tế mới, nhằm đối trọng với BRI và các chương trình khác của Trung Quốc. Dự báo trong thập kỷ tới, thế giới sẽ chứng kiến sự tồn tại song song của hai hệ thống các sáng kiến, một bên do Mỹ và đồng minh dẫn dắt, nhấn mạnh minh bạch và chuẩn mực dân chủ, bên kia là hệ thống do Trung Quốc khởi xướng, nhấn mạnh phát triển bao trùm, nhấn mạnh công bằng bình đẳng, không gắn điều kiện chính trị. Điều này không tạo ra sự thay thế tuyệt đối, mà mở rộng không gian lựa chọn cho các quốc gia, nhưng cũng là bài toán khó khiến các quốc gia phải cân nhắc chọn bên hoặc cân bằng song song nhưng cũng đầy thách thức.

Tác động lâu dài là sự phân tầng trong quản trị toàn cầu, nơi nhiều quốc gia vừa tham gia các sáng kiến Trung Quốc, vừa gắn bó với các thể chế phương Tây để tối đa hóa lợi ích. Bối cảnh gần giống như hình thức thời kỳ Chiến tranh lạnh thế kỷ XX, nó chỉ kết thúc khi có một bên thắng lợi và 1 bên thất bại, bởi trong môi trường vô chính phủ thì việc cạnh tranh và tiêu diệt lẫn nhau là điều hiển nhiên.

Dựa trên những yếu tố trên, có thể dự báo rằng GGI trong thập niên tới sẽ có những tác động nhất định. Nhiều khả năng, GGI sẽ phát huy vai trò như một khung bao trùm, giúp Trung Quốc tập hợp và hợp lý hóa các sáng kiến sẵn có, đồng thời mở rộng không gian ảnh hưởng ở các lĩnh vực ít nhạy cảm. Nói cách khác, trong tương lai gần, GGI khó có thể là bước ngoặt quyết định để tái lập toàn bộ trật tự thế giới. Nhưng nó chắc chắn sẽ là một mắt xích quan trọng trong chiến lược dài hạn của Trung Quốc nhằm tái định hình luật chơi toàn cầu theo hướng có lợi cho mình.

Kết luận

Có thể thấy rằng Sáng kiến Quản trị Toàn cầu cùng với hệ thống các sáng kiến liên quan là sự kết tinh của chiến lược dài hạn mà Trung Quốc theo đuổi nhằm mở rộng phạm vi ảnh hưởng trong một trật tự thế giới đang phân mảnh và chịu sức ép cạnh tranh cường quốc. Điểm nổi bật ở đây là Bắc Kinh không chỉ dừng lại ở việc định hình diễn ngôn chính trị hay khai thác khía cạnh truyền thông, mà còn xây dựng cơ chế vận hành thông qua các quỹ tài chính, dự án hạ tầng, mạng lưới đối tác quốc gia và cơ chế hợp tác đa phương. Điều này khiến sáng kiến của Trung Quốc vừa mang tính biểu tượng, vừa có cơ sở thực tiễn, khiến các nước đang phát triển có nhu cầu lớn về vốn, công nghệ, và hạ tầng khó có thể làm ngơ. Tuy nhiên, các nước G7 và EU, qua nhiều tuyên bố, đã coi các sáng kiến toàn cầu của Bắc Kinh vừa là cạnh tranh chiến lược vừa là thách thức với chuẩn mực quốc tế hiện hữu. Thực tiễn cho thấy, một số dự án hạ tầng lớn trong khuôn khổ BRI đã vấp phải sự chỉ trích về tính bền vững tài chính và môi trường, đồng thời làm dấy lên quan ngại về sự phụ thuộc chính trị. Đây là những yếu tố cản trở đáng kể đến sức lan tỏa dài hạn của sáng kiến.

Trong những lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo, tiêu chuẩn kỹ thuật, tài chính số và hợp tác phát triển, Trung Quốc có nhiều khả năng trở thành người dẫn dắt chuẩn mực nhờ lợi thế về quy mô thị trường, công nghệ và khả năng điều phối nguồn vốn. Ngược lại, trong các lĩnh vực mang tính nhạy cảm như an ninh hay quản trị chính trị, sáng kiến này có thể chỉ đóng vai trò đối trọng một cách mềm dẻo, tồn tại song song với trật tự phương Tây mà chưa đủ sức thay thế. Điều đó phản ánh một thực tế rằng thay vì một sự chuyển đổi toàn diện, sáng kiến của Trung Quốc hiện tại chủ yếu tạo ra một hệ thống đa tuyến, nơi nhiều chuẩn mực và cơ chế cùng tồn tại, và trong đó Bắc Kinh tìm cách khẳng định vị thế là một cực quyền lực không thể bị gạt bỏ. Chính sự phân tầng này mới là đặc điểm cốt lõi của trật tự quốc tế đương đại, và cũng là thước đo thực chất cho tham vọng dài hạn của Trung Quốc.

Tác giả: Trương Quốc Lượng

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của Nghiên cứu Chiến lược. Mọi trao đổi học thuật và các vấn đề khác, quý độc giả có thể liên hệ với ban biên tập qua địa chỉ mail: [email protected]

*Tài liệu tham khảo

[1] National Museum of American Diplomacy. (2021). Ping-Pong Diplomacy: Artifacts from the historic 1971 U.S. table tennis trip to China. U.S. https://diplomacy.state.gov/ping-pong-diplomacy-historic-1971-u-s-table-tennis-trip-to-china/

[2] Diplomacy.edu: Panda diplomacy. https://www.diplomacy.edu/topics/panda-diplomacy/

[3] Paul HAENLE & Nathaniel SHER, 2023. Ngoại giao sáng kiến: Các quy tắc mới của Trung Quốc về quản trị toàn cầu, an ninh và phát triển. Chính sách Đông Á (EAP). Nhà Xuất bản Khoa học Thế giới, tập 15(04), trang 7-21. https://ideas.repec.org/a/wsi/eapxxx/v15y2023i04ns1793930523000260.html

[4] Mark Pinkstone. (2025). Global Governance Initiative receives popular support. China Daily Asia. https://www.chinadailyasia.com/hk/article/620566

[5] CGTN. (2019). World Bank: BRI transport projects increase GDP for BRI economies. https://news.cgtn.com/news/3d3d414e3351444d34457a6333566d54/index.html

[6] AidData. (2021). AidData’s Global Chinese Development Finance Dataset, Version 2.0. https://www.aiddata.org/data/aiddatas-global-chinese-development-finance-dataset-version-2-0

[7] AidData. (2023). Global Chinese Development Finance Dataset, Version 3.0. https://www.aiddata.org/data/aiddatas-global-chinese-development-finance-dataset-version-3-0

[8] The Hindu. (2021). Sri Lanka formally hands over Hambantota port on 99-year lease to China. https://www.thehindu.com/news/international/sri-lanka-formally-hands-over-hambantota-port-on-99-year-lease-to-china/article61847422.ece

[9] AIIB. (2024). AIIB’s global membership grows to 110. https://www.prnewswire.com/news-releases/aiibs-global-membership-grows-to-110-302260070.html

[10] MINLU ZHANG. (2023). UN lauds China’s plan to achieve SDGs. China Daily. https://www.chinadaily.com.cn/a/202309/20/WS650ab745a310d2dce4bb6c88.html

[11] BRICS data. (2025).  https://brics.br/en/about-the-brics/brics-data

[12] BRICS data. (2025). BRICS GDP outperforms global average, accounts for 40 % of world economy. https://brics.br/en/news/brics-gdp-outperforms-global-average-accounts-for-40-of-world-economy

[13] Ben Norton. (2025). BRICS expands to 56% of world population, 44% of global GDP: Vietnam joins as partner country. Geopolitical Economy Report. https://geopoliticaleconomy.com/2025/07/04/brics-expansion-population-gdp-vietnam/

[14] Xinhua. (2025). China achieves 2024 growth target, bolsters global economy. GOV.CN. https://english.www.gov.cn/news/202501/18/content_WS678ae501c6d0868f4e8eeef7.html

ShareTweetShare
Bài trước

Thỏa thuận TikTok giữa Mỹ và Trung Quốc: Thỏa thuận mong manh và những nút thắt chưa được tháo gỡ

  • Thịnh Hành
  • Bình Luận
  • Latest
Cuba đương đầu với những thách thức chính trị trong nước

Cuba đương đầu với những thách thức chính trị trong nước

22/06/2025
Tin đồn về sự lung lay quyền lực của Tập Cận Bình: Hiện thực hay chỉ là biểu hiện của chiến tranh nhận thức?

Tin đồn về sự lung lay quyền lực của Tập Cận Bình: Hiện thực hay chỉ là biểu hiện của chiến tranh nhận thức?

04/06/2025
Tình hình xung đột tại Myanmar sau 3 năm: Diễn biến, tác động và dự báo

Tình hình xung đột tại Myanmar sau 3 năm: Diễn biến, tác động và dự báo

30/01/2024
Châu Á – “thùng thuốc súng” của Chiến tranh thế giới thứ ba

Châu Á – “thùng thuốc súng” của Chiến tranh thế giới thứ ba

18/09/2024
Xung đột quân sự Thái Lan – Campuchia: Cuộc chiến không có người chiến thắng

Xung đột quân sự Thái Lan – Campuchia: Cuộc chiến không có người chiến thắng

27/07/2025
Tình hình Biển Đông từ đầu năm 2024 đến nay và những điều cần lưu ý

Tình hình Biển Đông từ đầu năm 2024 đến nay và những điều cần lưu ý

06/05/2024
Làn sóng biểu tình ở Indonesia: thực trạng, dự báo và vấn đề đặt ra đối với Việt Nam

Làn sóng biểu tình ở Indonesia: thực trạng, dự báo và vấn đề đặt ra đối với Việt Nam

01/09/2025
Dấu hiệu cách mạng màu trong khủng hoảng chính trị ở Bangladesh?

Dấu hiệu cách mạng màu trong khủng hoảng chính trị ở Bangladesh?

07/08/2024
Triển vọng phát triển tuyến đường thương mại biển Á – Âu qua Bắc Băng Dương

Triển vọng phát triển tuyến đường thương mại biển Á – Âu qua Bắc Băng Dương

2
Khả năng phát triển của các tổ chức an ninh tư nhân Trung Quốc trong những năm tới

Khả năng phát triển của các tổ chức an ninh tư nhân Trung Quốc trong những năm tới

2
4,5 giờ đàm phán cấp cao Mỹ – Nga: cuộc chiến tại Ukraine liệu có cơ hội kết thúc?

Những điều đáng chú ý trong cuộc đàm phán Ngoại trưởng Nga – Mỹ tại Saudi Arabia

2
Tin đồn về sự lung lay quyền lực của Tập Cận Bình: Hiện thực hay chỉ là biểu hiện của chiến tranh nhận thức?

Tin đồn về sự lung lay quyền lực của Tập Cận Bình: Hiện thực hay chỉ là biểu hiện của chiến tranh nhận thức?

2
Liệu đã đến thời điểm nghĩ tới đàm phán hòa bình với Nga và các điều khoản sẽ thế nào?

Liệu đã đến thời điểm nghĩ tới đàm phán hòa bình với Nga và các điều khoản sẽ thế nào?

1
Quan hệ Nga-Trung-Triều phát triển nhanh chóng và hệ lụy đối với chiến lược của phương Tây

Quan hệ Nga-Trung-Triều phát triển nhanh chóng và hệ lụy đối với chiến lược của phương Tây

1
Campuchia triển khai Chiến lược Ngũ giác và những hàm ý đối với Việt Nam

Campuchia triển khai Chiến lược Ngũ giác và những hàm ý đối với Việt Nam

1
Nhìn nhận về quan hệ Nga – Triều hiện nay: Vị thế của một tiểu cường sở hữu vũ khí hạt nhân

Nhìn nhận về quan hệ Nga – Triều hiện nay: Vị thế của một tiểu cường sở hữu vũ khí hạt nhân

1
Sáng kiến Quản trị Toàn cầu của Trung Quốc: Tham vọng định hình trật tự thế giới hay biểu tượng của Ngoại giao Sáng kiến?

Sáng kiến Quản trị Toàn cầu của Trung Quốc: Tham vọng định hình trật tự thế giới hay biểu tượng của Ngoại giao Sáng kiến?

01/10/2025
Thỏa thuận TikTok giữa Mỹ và Trung Quốc: Thỏa thuận mong manh và những nút thắt chưa được tháo gỡ

Thỏa thuận TikTok giữa Mỹ và Trung Quốc: Thỏa thuận mong manh và những nút thắt chưa được tháo gỡ

30/09/2025
“Mùa đông dân số” ở châu Á: Tác động chính trị – xã hội và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam

“Mùa đông dân số” ở châu Á: Tác động chính trị – xã hội và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam

29/09/2025
Định hình an ninh châu Á qua quan hệ Mỹ–Trung, nhìn từ diễn đàn Shangri-La và Hương Sơn 2025

Định hình an ninh châu Á qua quan hệ Mỹ–Trung, nhìn từ diễn đàn Shangri-La và Hương Sơn 2025

27/09/2025
“Con đường tơ lụa kỹ thuật số” của Trung Quốc và tham vọng định hình trật tự kỹ thuật số quốc tế

“Con đường tơ lụa kỹ thuật số” của Trung Quốc và tham vọng định hình trật tự kỹ thuật số quốc tế

26/09/2025
Vai trò của Chính hiệp trong việc điều hoà mối quan hệ đa đảng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thời Tập Cận Bình

Vai trò của Chính hiệp trong việc điều hoà mối quan hệ đa đảng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thời Tập Cận Bình

25/09/2025
Bạo loạn chính trị Nepal: Tình hình, tác động và góc nhìn từ hiệu ứng Domino

Nepal và sự xuất hiện của một “Mùa Xuân châu Á” mới

24/09/2025
Xu hướng dịch chuyển trọng tâm chiến lược sang khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Mỹ: Phần đầu

Xu hướng dịch chuyển trọng tâm chiến lược sang khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Mỹ: Phần cuối

22/09/2025

Tin Mới

Sáng kiến Quản trị Toàn cầu của Trung Quốc: Tham vọng định hình trật tự thế giới hay biểu tượng của Ngoại giao Sáng kiến?

Sáng kiến Quản trị Toàn cầu của Trung Quốc: Tham vọng định hình trật tự thế giới hay biểu tượng của Ngoại giao Sáng kiến?

01/10/2025
23
Thỏa thuận TikTok giữa Mỹ và Trung Quốc: Thỏa thuận mong manh và những nút thắt chưa được tháo gỡ

Thỏa thuận TikTok giữa Mỹ và Trung Quốc: Thỏa thuận mong manh và những nút thắt chưa được tháo gỡ

30/09/2025
92
“Mùa đông dân số” ở châu Á: Tác động chính trị – xã hội và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam

“Mùa đông dân số” ở châu Á: Tác động chính trị – xã hội và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam

29/09/2025
152
Định hình an ninh châu Á qua quan hệ Mỹ–Trung, nhìn từ diễn đàn Shangri-La và Hương Sơn 2025

Định hình an ninh châu Á qua quan hệ Mỹ–Trung, nhìn từ diễn đàn Shangri-La và Hương Sơn 2025

27/09/2025
271

Cộng đồng nghiên cứu chiến lược và các vấn đề quốc tế.

Liên hệ

Email: [email protected]; [email protected]

Danh mục tin tức

  • Bầu cử tổng thống mỹ
  • Châu Á
  • Châu Âu
  • Châu Đại Dương
  • Châu Mỹ
  • Châu Phi
  • Chính trị
  • Chuyên gia
  • Khu vực
  • Kinh tế
  • Lĩnh vực
  • Media
  • Phân tích
  • Quốc phòng – an ninh
  • Sách
  • Sự kiện
  • Sự kiện
  • Thông báo
  • Thư viện
  • TIÊU ĐIỂM – ĐẠI HỘI ĐẢNG XX TQ
  • Xã hội
  • Ý kiến độc giả
No Result
View All Result
  • Trang Chủ
  • Lĩnh vực
    • Kinh tế
    • Xã hội
    • Quốc phòng – an ninh
    • Chính trị
  • Khu vực
    • Châu Á
    • Châu Âu
    • Châu Mỹ
    • Châu Phi
    • Châu Đại Dương
  • Phân tích
    • Ý kiến độc giả
    • Chuyên gia
  • Thư viện
    • Sách
    • Tạp chí
    • Media
  • Podcasts
  • Giới thiệu
    • Ban Biên tập
    • Dịch giả
    • Đăng ký cộng tác
    • Thông báo

© 2022 Bản quyền thuộc về nghiencuuchienluoc.org.