Nghiên Cứu Chiến Lược
  • Trang Chủ
  • Lĩnh vực
    • Kinh tế
    • Xã hội
    • Quốc phòng – an ninh
    • Chính trị
  • Khu vực
    • Châu Á
    • Châu Âu
    • Châu Mỹ
    • Châu Phi
    • Châu Đại Dương
  • Phân tích
    • Ý kiến độc giả
    • Chuyên gia
  • Thư viện
    • Sách
    • Tạp chí
    • Media
  • Podcasts
  • Giới thiệu
    • Ban Biên tập
    • Dịch giả
    • Đăng ký cộng tác
    • Thông báo
No Result
View All Result
  • Trang Chủ
  • Lĩnh vực
    • Kinh tế
    • Xã hội
    • Quốc phòng – an ninh
    • Chính trị
  • Khu vực
    • Châu Á
    • Châu Âu
    • Châu Mỹ
    • Châu Phi
    • Châu Đại Dương
  • Phân tích
    • Ý kiến độc giả
    • Chuyên gia
  • Thư viện
    • Sách
    • Tạp chí
    • Media
  • Podcasts
  • Giới thiệu
    • Ban Biên tập
    • Dịch giả
    • Đăng ký cộng tác
    • Thông báo
No Result
View All Result
Nghiên Cứu Chiến Lược
No Result
View All Result
Home Khu vực Châu Á

Vai trò của mạng lưới người Hoa tại Campuchia trong công tác mặt trận thống nhất Trung Quốc: Tác động khu vực và hàm ý cho Việt Nam

14/12/2025
in Châu Á, Chính trị, Phân tích
A A
0
Vai trò của mạng lưới người Hoa tại Campuchia trong công tác mặt trận thống nhất Trung Quốc: Tác động khu vực và hàm ý cho Việt Nam
0
SHARES
13
VIEWS
Share on FacebookShare on Twitter

Trong chiến lược đối ngoại tổng thể, Trung Quốc không chỉ dựa vào sức mạnh cứng về kinh tế, quân sự, mà ngày càng khai thác các công cụ mềm để mở rộng ảnh hưởng, nổi bật là chính sách ngoại giao nhân dân gắn với công tác Mặt trận Thống nhất. Một cấu phần trọng yếu trong đó chính là việc kết nối và huy động cộng đồng người Hoa hải ngoại, đặc biệt tại Đông Nam Á nơi tập trung một trong những cộng đồng lớn và có ảnh hưởng sâu rộng nhất thế giới. Sự hiện diện của người Hoa trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, văn hóa – xã hội đã tạo nên một cầu nối tự nhiên để Bắc Kinh vừa củng cố ảnh hưởng lâu dài, vừa lồng ghép lợi ích chiến lược vào đời sống của các quốc gia sở tại. Từ năm 2012, giai đoạn Trung Quốc bước vào thế chủ động trong thiết lập luật chơi khu vực, các hoạt động củng cố hội đoàn, thúc đẩy hợp tác và mở rộng mạng lưới xuyên quốc gia trở nên rõ rệt hơn, điển hình là Campuchia. Trường hợp này không chỉ phản ánh cơ chế ảnh hưởng của sức mạnh mềm Trung Quốc, mà còn gợi mở nhiều bài học chiến lược cho Việt Nam và ASEAN trong ứng xử với môi trường cạnh tranh quyền lực ngày càng phức tạp.

Danh mục tên các cơ quan viết tắt:

ĐCSTQ Đảng Cộng sản Trung Quốc
UFWD Ủy ban Công tác Mặt trận Thống nhất Trung ương
CPPCC Hội nghị Hiệp thương Chính trị Toàn quốc
OCAO Văn phòng Công tác Hoa kiểu của Quốc vụ viện
CCID Ban Đối Ngoại Trung ương
CAC Liên đoàn Hoa kiều Campuchia

Công tác mặt trận thống nhất của Trung Quốc

Mặt trận Thống nhất đã trở thành một cấu phần trung tâm trong kiến trúc quyền lực và chiến lược đối ngoại toàn diện của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong thời kỳ mới, vượt ra ngoài khuôn khổ của một cơ chế vận động quần chúng truyền thống. Từ thời Mao Trạch Đông, công tác Mặt trận Thống nhất đã được xác định là một trong ba “vũ khí pháp bảo” (法宝) quan trọng để Đảng giành và củng cố quyền lực[1]. Tuy nhiên, kể từ khi Tổng Bí thư Tập Cận Bình lên nắm quyền, Ủy ban Công tác Mặt trận Thống nhất Trung ương (United Front Work Department – UFWD) đã được tái định vị chiến lược với phạm vi mở rộng, tính thể chế hóa cao hơn, đồng thời gắn chặt với mục tiêu tổng thể nhằm phục hưng sự vĩ đại của dân tộc Trung Hoa và thiết lập những luật chơi quốc tế có lợi cho Trung Quốc. Trong Hội nghị toàn quốc về công tác Mặt trận Thống nhất ngày 18 tháng 5 năm 2015, Chủ tịch Tập Cận Bình cũng nhấn mạnh rằng Mặt trận Thống nhất là một trong ba vũ khí quan trọng nhất giúp Đảng giành thắng lợi cách mạng và xây dựng đất nước, đồng thời cần tiếp tục huy động sức mạnh từ mọi tầng lớp xã hội và thế giới bên ngoài[2].

Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay là UFWD đã được lồng ghép trực tiếp vào ba trụ cột đối ngoại của Trung Quốc, tạo nên nền tảng cho việc triển khai sức mạnh tổng hợp về đối ngoại Đảng, ngoại giao nhân dân và ngoại giao nhà nước.

Trong đối ngoại Đảng, UFWD vận hành như một kênh mở rộng ảnh hưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc thông qua các đảng phái chính trị, tổ chức quần chúng và các mạng lưới thân hữu ngoài Đảng, cả trong nước và quốc tế. Từ năm 2015 đến cuối năm 2018, trung tâm của hệ thống Mặt trận Thống nhất, Ban Công tác Mặt trận Thống nhất Trung ương, đã được tái cấu trúc và thành lập một số cơ quan mới, phản ánh sự chú trọng hơn vào các lĩnh vực tôn giáo, dân tộc và Hoa kiều. Hội nghị Hiệp thương Chính trị Toàn quốc (CPPCC) là một tổ chức nền tảng của Mặt trận Thống nhất, nơi đại biểu đến từ các đảng phái chính trị thiểu số, nhóm tôn giáo, dân tộc thiểu số, và các ngành khoa học, nghệ thuật, nông nghiệp, công nghiệp, kinh doanh và công nghệ tham gia. Dù là cơ quan quốc gia, CPPCC có các cơ quan ở cấp tỉnh, huyện và thị trấn, với khoảng hai phần ba đại biểu là đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc. Sau các cải cách thể chế năm 2015 và 2018, UFWD được trao quyền điều phối sâu hơn với Ban Đối ngoại Trung ương (CCID) và Ban Tuyên truyền Trung ương, hình thành một mặt trận chính trị – tư tưởng đồng bộ[3].

Trong ngoại giao nhân dân, UFWD kiểm soát hệ thống hiệp hội Hoa kiều, Viện Khổng Tử, các tổ chức phi chính phủ và các kênh văn hóa – xã hội, mở rộng sức mạnh mềm, đặc biệt tại những quốc gia mà Trung Quốc chưa có nhiều dư địa ảnh hưởng chính thức.

Trong ngoại giao nhà nước, UFWD phối hợp với Bộ Ngoại giao và các cơ quan chính phủ để tạo đòn bẩy xã hội, vận động cộng đồng người Hoa ủng hộ lập trường Bắc Kinh trong các vấn đề Biển Đông, Đài Loan, hay các định chế quốc tế.

Việc sáp nhập Văn phòng Công tác Hoa kiều của Quốc vụ viện (OCAO) vào UFWD theo Kế hoạch cải cách thể chế Đảng và Nhà nước năm 2018 là minh chứng rõ ràng cho xu hướng tập trung quyền lực và nhất thể hóa các kênh vận động ngoài Đảng với hệ thống lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Đảng. Trước 2018, OCAO trực thuộc Quốc vụ viện, phụ trách các hoạt động liên quan đến người Hoa hải ngoại. Sau khi sáp nhập, UFWD kiểm soát chặt chẽ hơn các hoạt động tại Campuchia, từ chính sách viện trợ, giao lưu văn hóa đến các chương trình kinh tế – xã hội. Ở cấp địa phương, các văn phòng UFWD tại Quảng Đông, Phúc Kiến và Quảng Tây, những tỉnh có mối quan hệ lịch sử mật thiết với cộng đồng Hoa kiều Campuchia, triển khai các dự án hỗ trợ, huy động người Hoa tham gia đầu tư, hoặc tổ chức giao lưu văn hóa, thường thông qua các quỹ đặc thù như Quỹ Hoa Kiều Hải ngoại. Bên cạnh UFWD và OCAO, CPPCC tạo kênh chính trị tham vấn cho người Hoa hải ngoại đóng góp ý kiến chính sách, củng cố mối quan hệ giữa Bắc Kinh với các cộng đồng Hoa kiều tại nước ngoài. Cơ cấu này vận hành theo mô hình tập trung phân tán, UFWD và các cơ quan trung ương đề ra định hướng, chiến lược, trong khi các cơ quan địa phương, doanh nghiệp nhà nước và tổ chức xã hội dân sự triển khai hoạt động tại Campuchia, giúp chiến lược Mặt trận Thống nhất thâm nhập sâu, thích ứng môi trường sở tại, đồng thời duy trì kiểm soát tập trung từ Bắc Kinh.

Xét về bản chất, UFWD là cơ chế vận hành chiến lược đa tầng, vừa phục vụ ổn định nội bộ, vừa mở rộng ảnh hưởng ra bên ngoài. Trong nước, nó liên kết và kiểm soát lực lượng ngoài Đảng, từ trí thức, doanh nhân tư nhân đến nhóm tôn giáo và dân tộc thiểu số, củng cố quyền lực chính trị. Ở ngoài nước, UFWD khai thác cộng đồng Hoa kiều và các kênh xã hội dân sự như điểm tựa để xây dựng ảnh hưởng kinh tế – chính trị, tạo cửa hậu bổ trợ cho ngoại giao nhà nước. UFWD kết nối quyền lực cứng và mềm của Trung Quốc, điều phối ba tầng nấc đối ngoại Đảng, Ngoại giao nhân dân, Ngoại giao nhà nước. Trong bối cảnh Trung Quốc chuyển từ thời kỳ phát triển sang thời kỳ thiết lập luật chơi quốc tế, UFWD nâng tầm thành công cụ định hình cấu trúc quyền lực bên ngoài lãnh thổ Trung Quốc. Thông qua mạng lưới chính trị – xã hội xuyên quốc gia, UFWD giúp Bắc Kinh xây dựng quyền lực thể chế, ảnh hưởng đến chuẩn mực, quy tắc quốc tế bằng cách tham gia sâu rộng vào cộng đồng Hoa kiều và tổ chức thân hữu. Đây là minh chứng cho thấy UFWD không chỉ là công cụ đằng sau hỗ trợ hậu trường mà trở thành trụ cột chiến lược trong việc mở rộng quyền lực ra bên ngoài và bảo vệ môi trường chính trị – xã hội nội địa.

Sách trắng “China: Democracy That Works” (《中国的民主》) do Văn phòng Thông tin Quốc vụ viện Trung Quốc công bố ngày 04/12/2021, mục IV mang tên “Củng cố và phát triển Mặt trận Thống nhất yêu nước rộng lớn nhất” đã khẳng định vị thế chiến lược của công tác Mặt trận Thống nhất trong hệ thống chính trị của ĐCSTQ, nêu rõ đây là công cụ quan trọng để tập hợp lòng dân, huy động tất cả các nhân tố tích cực trong và ngoài nước phục vụ chiến lược phát triển quốc gia[4].

Từ góc nhìn học thuật, UFWD là nhân tố then chốt trong chiến lược sức mạnh tổng hợp của Đảng Cộng sản Trung Quốc, củng cố quyền lực chính trị nội bộ, mở rộng quyền lực chuẩn mực quốc tế và nâng cao khả năng tương tác linh hoạt giữa đối nội và đối ngoại, qua đó gia tăng vị thế và ảnh hưởng của Trung Quốc trong trật tự thế giới đang định hình lại.

Vai trò của người Hoa tại Campuchia trong công tác mặt trận

Người Hoa là một trong những cộng đồng di dân lâu đời và có ảnh hưởng sâu sắc nhất ở Campuchia. Sự hiện diện rõ nét của họ bắt đầu từ thế kỷ XV, gắn với các tuyến thương mại hàng hải trên Vịnh Thái Lan và sông Mekong. Chính sách Hải cấm thời Minh và Thanh buộc nhiều thương nhân Phúc Kiến, Quảng Đông di cư sang Đông Nam Á, trong đó Campuchia trở thành điểm dừng quan trọng[5]. Họ chủ yếu tham gia vào hoạt động buôn bán nông sản, muối, lâm sản và thủ công mỹ nghệ. Dưới thời Pháp thuộc, làn sóng di cư gia tăng mạnh. Chính quyền thuộc địa khuyến khích nhập cư người Hoa nhằm phát triển kinh tế. Các bang hội (会馆) theo quê quán dần hình thành, củng cố sự tự trị và liên kết cộng đồng. Cuối thập niên những năm 1920 số người Hoa vào khoảng 275.000, với tỷ lệ ước tính khoảng 9,8% dẫn số, kiểm soát mạng lưới phân phối gạo, cao su và bán lẻ tại Phnom Penh.[6] Sau độc lập từ năm 1953, cộng đồng Hoa tiếp tục thịnh vượng nhưng cũng đối diện với các chính sách Khmer hóa của Quốc vương Sihanouk, yêu cầu nhập quốc tịch Khmer. Dù vậy, người Hoa vẫn duy trì vai trò kinh tế quan trọng cho đến trước khi Lon Nol lên cầm quyền năm 1970.

Giai đoạn Khmer Đỏ từ năm 1975 – 1979 là thảm kịch với cộng đồng này. Các nguồn mô tả rằng Khmer Đỏ đã sát hại, bỏ đói, lao động cưỡng bức hàng loạt nạn đói, bệnh tật, cướp bóc, tra tấn gây tử vong cho rất nhiều người dân, kể cả các dân tộc thiểu số, ngoại kiều, thiểu số tôn giáo, thiểu số dân tộc. Trước 1975 có khoảng 425.000 đến năm 1984 là chỉ còn 61.400 người[7], nhiều người di cư sang Việt Nam, Thái Lan hoặc trại tị nạn. Sau 1979, khi Campuchia tái thiết, người Hoa dần quay lại, được khôi phục bang hội, trường học và tham gia tái thiết kinh tế. Từ thập niên 1990, cộng đồng này tập trung nhiều ở khu vực Phnom Penh, Sihanoukville, Battambang, Kampong Cham.

Bước sang thế kỷ XXI, cùng với dòng vốn Trung Quốc, di cư người Hoa tăng mạnh, đặc biệt ở Sihanoukville được xem là trung tâm đầu tư chiến lược. Hiện nay, cộng đồng Hoa kiều ở Campuchia ước đạt khoảng 900.000 đến một triệu người Hoa hoặc người Hoa gốc Campuchia sinh sống tại nước này, khoảng 100.000 người vẫn giữ quốc tịch Trung Quốc, trong khi 800.000 người còn lại đã có quốc tịch Campuchia, trở thành nhóm Hoa kiều phát triển nhanh nhất Đông Nam Á[8].

Người Hoa, dù chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ dân số, lại có sức ảnh hưởng kinh tế vượt trội. Họ kiểm soát nhiều lĩnh vực then chốt tề thương mại, ngân hàng, bất động sản, xuất nhập khẩu và dịch vụ. Từ thời Pháp thuộc, người Hoa đã chiếm ưu thế trong chuỗi cung ứng hàng hóa, thập niên 1960, họ nắm tới 80% bán buôn và 70% bán lẻ tại Phnom Penh, khoảng 90% người Hoa ở Campuchia tham gia thương mại, và 92% các thương nhân ở Campuchia là người Hoa[9]. Mạng lưới bang hội dựa trên quê quán Triều Châu, Quảng Đông, Phúc Kiến, Hải Nam vừa cạnh tranh vừa bổ trợ, tạo thành hệ sinh thái kinh doanh bền chặt. Ngày nay, sự hiện diện kinh tế của họ thể hiện rõ qua bất động sản và xây dựng. Hơn 52,38% tổng số dự án bất động sản lớn tại Campuchia có vốn Hoa kiều hoặc liên quan Trung Quốc[10]. Tại Sihanoukville, người Hoa thống trị casino, khách sạn, khu kinh tế đặc biệt đều là những lĩnh vực gắn với Sáng kiến Vành đai  và Con đường (BRI). Trong tài chính, Canadia Bank ngân hàng lớn hàng đầu Campuchia do doanh nhân Hoa sáng lập, đóng vai trò trung tâm trong việc huy động và luân chuyển vốn. Song song, mạng lưới tín dụng phi chính thức dựa trên quan hệ bang hội cũng nuôi dưỡng doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Sau năm 1990, khi Campuchia bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, hệ thống hội đoàn Hoa kiều khôi phục mạnh mẽ. Liên đoàn Hoa kiều Campuchia (CAC) trở thành tổ chức có ảnh hưởng nhất, vừa kết nối cộng đồng với Đại sứ quán Trung Quốc, vừa tổ chức các hoạt động văn hóa, từ thiện và thương mại. Các phòng thương mại Hoa kiều tại Phnom Penh và Sihanoukville đóng vai trò hỗ trợ doanh nhân, đồng thời là kênh thực thi ngoại giao nhân dân của Trung Quốc. Ngoài kinh tế, các hội đoàn duy trì mạng lưới trường học Hoa ngữ, chùa Hoa và hoạt động văn hóa, nhận tài trợ trực tiếp từ Bắc Kinh. Hệ thống này giúp nuôi dưỡng ý thức hướng về tổ quốc và gắn kết cộng đồng với chiến lược Mặt trận Thống nhất. Thông qua giáo dục, lễ hội và các dự án cộng đồng, người Hoa không chỉ bảo vệ bản sắc mà còn góp phần mở rộng ảnh hưởng xã hội – chính trị của Trung Quốc tại Campuchia. Người Hoa giữ vai trò đặc biệt trong xuất khẩu gạo, nông sản và chuỗi cung ứng vật liệu xây dựng. Các doanh nghiệp Triều Châu tiếp tục kiểm soát ngành gạo mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Họ cũng tham gia sâu vào lĩnh vực năng lượng, khai khoáng và các khu công nghiệp. Mạng lưới kinh tế đa tầng này kết nối từ thương nhân nhỏ lẻ đến tập đoàn xuyên quốc gia, tạo sức ảnh hưởng khó thay thế. Trong giai đoạn COVID-19, khi nhiều lĩnh vực bị đình trệ, người Hoa vẫn duy trì ảnh hưởng nhờ tiếp cận vốn từ Trung Quốc. Các dự án bất động sản cao cấp ở Phnom Penh, đầu tư logistics và công nghiệp ở Sihanoukville, cũng như xuất khẩu gạo sang Trung Quốc đều minh chứng cho sự thích ứng và khả năng tái cấu trúc của cộng đồng này, người Hoa đã trở thành cầu nối kinh tế chiến lược giữa Campuchia và Trung Quốc.

Người Hoa là đầu mối tiếp nhận và phân bổ vốn FDI Trung Quốc. Tính từ 1994 đến khoảng đầu thập niên 2020, FDI từ Trung Quốc chiếm tỉ lệ lớn trong tổng FDI vào Campuchia, Trung Quốc đã đóng góp hơn 18 tỷ USD chiếm khoảng 43% trong tổng FDI 41 tỷ USD trong giai đoạn này[11], FDI phần lớn thông qua doanh nghiệp Hoa kiều. Các dự án lớn ở đều có sự phối hợp giữa tập đoàn Trung Quốc và doanh nhân người Hoa. Đây cũng là phương tiện để Trung Quốc củng cố ảnh hưởng lâu dài trong xã hội Campuchia. Người Hoa kiểm soát nhiều lĩnh vực nhạy cảm như bất động sản, casino, khu công nghiệp, đồng thời đóng vai trò hòa giải trong các dự án chiến lược ví dụ cải tạo căn cứ hải quân Ream.

Cộng đồng người Hoa tại Campuchia là một thực thể vừa mang tính lịch sử, vừa mang ý nghĩa chiến lược hiện nay. Họ đã trải qua nhiều biến động từ thịnh vượng, bị đàn áp, cho đến phục hồi nhưng vẫn duy trì được vai trò trung gian kinh tế và xã hội. Hiện tại, người Hoa không chỉ là trụ cột kinh tế mà còn là công cụ quan trọng trong chiến lược đối ngoại và Mặt trận Thống nhất của Trung Quốc. Điều này giúp Campuchia hưởng lợi từ dòng vốn, hạ tầng và thương mại, nhưng cũng đặt ra thách thức về sự phụ thuộc quá mức vào một cộng đồng thiểu số gắn chặt với Bắc Kinh. Trong bối cảnh cạnh tranh ảnh hưởng tại Tiểu vùng Mekong ngày càng gay gắt, vai trò của người Hoa tại Campuchia sẽ tiếp tục là một biến số quan trọng, vừa củng cố vừa định hình chiều sâu quan hệ Trung Quốc – Campuchia.

Để triển khai công tác Mặt trận Thống nhất tại Campuchia, Trung Quốc đã thiết lập một hệ thống công cụ đa dạng, kết nối chặt chẽ với cộng đồng người Hoa bản địa và các thiết chế chính trị – kinh tế sở tại. Hệ thống này hoạt động đồng bộ ở nhiều tầng nấc xã hội, vừa duy trì ảnh hưởng mềm, vừa bảo vệ lợi ích chiến lược dài hạn của Bắc Kinh.

Một trong những công cụ then chốt là Học viện Khổng Tử, trực thuộc Bộ Giáo dục Trung Quốc và quản lý bởi tổ chức Hanban. Học viện Khổng Tử tại Campuchia được thành lập năm 2009 tại Đại học Hoàng gia Phnom Penh với mục tiêu thúc đẩy ngôn ngữ và văn hóa Trung Hoa. Tính đến năm 2024, Campuchia có hai Học viện Khổng Tử chính và hơn 22 điểm lớp học Khổng Tử tại các trường phổ thông và đại học. Các Học viện này không chỉ giảng dạy tiếng Quan thoại mà còn tổ chức các sự kiện văn hóa lớn như Ngày văn hóa Trung Quốc, Tuần lễ Khổng Tử, các cuộc thi hùng biện tiếng Hoa và thi viết chữ Hán. Những hoạt động này giúp củng cố nhận thức tích cực về Trung Quốc trong giới trẻ Campuchia, đồng thời kết nối cộng đồng người Hoa với đại lục thông qua giáo trình, giáo viên, cơ sở vật chất và học bổng du học do Đại sứ quán Trung Quốc trao tặng. Sự phổ biến tiếng Quan thoại tại các trường Hoa ngữ cũng tạo ra sự liên kết văn hóa mạnh mẽ giữa cộng đồng người Hoa và Trung Quốc đại lục. Song song với Học viện Khổng Tử, Trung Quốc triển khai các sự kiện giao lưu văn hóa, nghệ thuật và thể thao để tạo dựng hình ảnh tích cực trong xã hội Campuchia. Đại sứ quán Trung Quốc phối hợp với Liên đoàn Hoa kiều Campuchia, các bang hội người Hoa và chính quyền địa phương tổ chức lễ hội truyền thống như Trung thu, Nguyên tiêu, các trận đấu thể thao giao hữu, hoặc các đoàn nghệ thuật Trung Quốc biểu diễn. Những sự kiện này thường có sự tham dự của quan chức cấp cao Campuchia, vừa tăng cường mối quan hệ chính trị – xã hội, vừa củng cố đường dây kết nối cộng đồng người Hoa trong và ngoài Campuchia với các cơ quan Trung Quốc.

Doanh nghiệp là công cụ kinh tế quan trọng để Trung Quốc cắm rễ tại Campuchia. Các tập đoàn và doanh nghiệp thân hữu không chỉ đầu tư trực tiếp mà còn kết nối với các bang hội và doanh nhân người Hoa để triển khai các dự án trọng điểm. Trong lĩnh vực bất động sản và xây dựng, các tập đoàn như China Metallurgical Group, Union Development Group, và các doanh nghiệp vừa và nhỏ do người Hoa Campuchia điều hành đã trở thành lực lượng chủ đạo. Điển hình là dự án Khu phát triển Dara Sakor, do Union Development Group triển khai, có diện tích hơn 36.000 ha tại tỉnh Koh Kong được thuê tới 99 năm, gần các tuyến hàng hải quốc tế[12]. Những doanh nghiệp này đóng vai trò như vệ tinh kinh tế, hỗ trợ Bắc Kinh triển khai các dự án tạo vành đai kiềm tỏa bao vây như một mạng lưới dày đặc.

Cộng đồng doanh nhân người Hoa Campuchia là lực lượng trung gian quan trọng, họ vừa điều phối nguồn vốn, vừa duy trì quan hệ với chính quyền sở tại. Trung Quốc còn xây dựng mạng lưới truyền thông thân hữu để định hướng dư luận. Các cơ quan truyền thông như China Global Television Network và Tân Hoa Xã có văn phòng tại Phnom Penh, phối hợp với báo chí Campuchia để phổ biến thông tin về các dự án hợp tác và hình ảnh tích cực của Trung Quốc. Các báo tiếng Hoa như Jian Hua Daily và Sin Chew Daily cũng nhận được hỗ trợ tài chính và nội dung từ Trung Quốc, tạo kênh quan trọng để củng cố mối liên kết với cộng đồng Hoa kiều.

Campuchia, với vị trí chiến lược trong tiểu vùng Mekong, cảng nước sâu Sihanoukville và sự phụ thuộc vào đầu tư nước ngoài, trở thành điểm đến trọng yếu của Sáng kiến Vành đai và Con đường. Cộng đồng người Hoa Campuchia đóng vai trò vừa triển khai dự án, vừa tạo môi trường xã hội – chính trị thuận lợi. Các doanh nghiệp Hoa kiều hỗ trợ vận động vốn từ Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc, ký hợp đồng thầu phụ, và vận động ưu đãi từ chính quyền địa phương, giúp giảm rủi ro chính trị và kinh doanh cho các dự án BRI. Chính phủ Campuchia cũng đánh giá cao vai trò của Trung Quốc trong phát triển cơ sở hạ tầng và hỗ trợ BRI. Thủ tướng Hun Sen khẳng định rằng sáng kiến Con đường Tơ lụa trên biển thế kỷ 21 phù hợp với chính sách phát triển hạ tầng của Campuchia, và các quan chức cao cấp được chỉ đạo nghiên cứu các bài viết của Tổng Bí thư Tập Cận Bình về BRI[13]. Campuchia cũng kiên định ủng hộ Trung Quốc trong các vấn đề khu vực như Biển Đông, phản ánh sự tin cậy và ưu tiên chiến lược trong quan hệ song phương.

Mặt trận Thống nhất cũng khai thác mạng lưới bang hội và hội đoàn người Hoa như Liên đoàn Hoa kiều Campuchia, Hội đồng Thương nhân Hoa kiều Phnom Penh, các bang hội Triều Châu và Quảng Đông để vận động dư luận và tạo khung diễn ngôn tích cực cho các họat động của mình tại khu vực. Các hội đoàn này tổ chức hội thảo chính trị, kinh tế, diễn đàn doanh nghiệp, giới thiệu dự án, đồng thời phối hợp với báo chí địa phương và tiếng Hoa để truyền tải thông điệp tích cực về Trung Quốc. Qua đó, các dự án kinh tế và chính trị lớn ít gặp phản đối, nâng cao chấp nhận xã hội và củng cố ảnh hưởng chính trị của Bắc Kinh thông qua các doanh nhân Hoa kiều, đồng thời giải thích lý do tại sao Campuchia thường ủng hộ lập trường Trung Quốc trong các vấn đề khu vực. Tuy nhiên, việc huy động cộng đồng người Hoa cũng đối mặt với thách thức. Một bộ phận người Khmer lo ngại về sự gia tăng ảnh hưởng kinh tế của người Hoa và Trung Quốc, đặc biệt tại Sihanoukville, nơi dân số Hoa kiều tăng nhanh. Sự phụ thuộc quá mức vào doanh nhân Hoa kiều có nguy cơ tạo ra đồng nhất hóa lợi ích giữa cộng đồng này với chiến lược của Trung Quốc, khiến họ dễ bị coi là đại diện của Bắc Kinh thay vì thành phần tự chủ trong xã hội Campuchia. Do đó, các hoạt động xã hội, truyền thông và đầu tư phải được điều chỉnh khéo léo để xoa dịu dư luận, đồng thời đảm bảo lợi ích thiết thực cho người dân bản địa.

Cộng đồng người Hoa tại Campuchia giữ vai trò không thể thay thế trong việc triển khai BRI, từ thực hiện dự án kinh tế đến xây dựng hình ảnh chính trị – văn hóa cho Trung Quốc. Với mạng lưới kinh doanh chặt chẽ, quan hệ sâu rộng với chính quyền và sự gắn kết văn hóa ngày càng mạnh với đại lục, họ trở thành cầu nối quan trọng, giúp Bắc Kinh mở rộng ảnh hưởng. Duy trì vai trò này đòi hỏi cân bằng giữa lợi ích chiến lược của Trung Quốc, lợi ích cộng đồng Hoa kiều và lợi ích người dân Campuchia, qua đó bảo đảm sự bền vững và hình ảnh tích cực của quan hệ song phương. Campuchia, với vị trí chiến lược, trở thành một phòng thí nghiệm sống cho ngoại giao nhân dân toàn diện của Bắc Kinh. Không chỉ người Hoa, mà toàn bộ mạng lưới xã hội từ các tổ chức cộng đồng, nhóm tôn giáo, đến tầng lớp tinh hoa chính trị được vận hành như một hệ thống mặt trận thống nhất tinh vi, nơi ý đồ chính trị của Trung Quốc hiện rõ nhằm huy động lòng trung thành, kiểm soát ảnh hưởng  và đặt đòn bẩy quyền lực ngay trong xã hội nước khác. Hệ thống này không phô trương quyền lực mà lặng lẽ thiết lập các mắt xích kết nối mọi tầng lớp, biến lực lượng dân sự thành công cụ chính trị đa tầng, khéo léo thí nghiệm khả năng tập hợp và vận động. Campuchia vừa là khán giả vừa là đạo cụ cho vở kịch ngoại giao nhân dân cho chiến lược toàn cầu của Bắc Kinh.

Tác động khu vực từ công tác Mặt trận Thống nhất tại Campuchia

Tác động khu vực từ công tác Mặt trận Thống nhất tại Campuchia thể hiện rõ qua cách Bắc Kinh vận hành ngoại giao nhân dân như một chiến lược chính trị tổng thể, vượt xa các phương tiện kinh tế hay hạ tầng thông thường.

Campuchia, với vị trí chiến lược ở hạ lưu sông Mekong và vai trò trọng yếu trong khu vực Đông Nam Á, trở thành phòng thí nghiệm sống cho mô hình này, nơi người Hoa, các tổ chức xã hội, tôn giáo, cộng đồng trí thức và tầng lớp tinh hoa chính trị được tích hợp vào một mạng lưới tác động đồng bộ. Thông qua việc điều phối các mắt xích xã hội này, Bắc Kinh không chỉ tạo ra sự đồng thuận nội bộ mà còn thiết lập cơ chế kiểm soát mềm, nơi các quyết định quan trọng về chính sách đối ngoại, an ninh, và các vấn đề khu vực gần như được tiền định thông qua việc vận động lòng tin và lợi ích của các nhóm xã hội khác nhau. Hệ thống này thể hiện một cách tinh vi khả năng biến lực lượng dân sự thành công cụ chính trị, thiết lập các cơ chế giám sát và điều phối mà không cần sử dụng quyền lực cưỡng bức trực tiếp, đồng thời tạo ra một văn hóa đồng thuận giúp củng cố vị thế của Bắc Kinh tại Phnom Penh.

Hiệu quả của công tác Mặt trận Thống nhất tại Campuchia không chỉ dừng lại ở mức quốc gia mà còn lan tỏa đến các nước láng giềng, đặc biệt là Lào và các quốc gia hạ lưu Mekong. Tương tự như cách Trung Quốc trở thành đối tác kinh tế – tài chính lớn nhất của Lào, cung cấp phần lớn nợ công và tài trợ các dự án hạ tầng chiến lược như tuyến đường sắt Lào – Trung, Bắc Kinh thông qua Campuchia xây dựng một mạng lưới tác động giữa mềm và cứng một cách đồng bộ, nơi các chính sách và dòng chảy quyền lực được định hình từ bên trong xã hội. Campuchia trở thành một nút neo chiến lược, nơi mọi tầng lớp và cơ cấu xã hội được huy động để củng cố ảnh hưởng chính trị và tư tưởng, đồng thời tạo ra một cơ sở địa chính trị giúp Bắc Kinh triển khai các dự án liên khu vực, định hình quỹ đạo phát triển và các ưu tiên chiến lược của cả vùng Mekong. Sự phụ thuộc chiến lược này, khi kết hợp với mạng lưới ngoại giao nhân dân và các cơ chế Mặt trận Thống nhất, làm suy yếu khả năng phản biện độc lập của Campuchia trong các vấn đề khu vực, đồng thời giảm tính hiệu quả của các cơ chế hợp tác đa phương như ASEAN trong việc bảo vệ lợi ích tập thể.

Ở Thái Lan, Trung Quốc áp dụng một chiến lược mềm dẻo hơn, tập trung vào kinh tế, thương mại và kết nối hạ tầng. Trung Quốc hiện là đối tác thương mại lớn nhất của Thái Lan, với kim ngạch song phương vượt 135 tỷ USD vào năm 2023. Các dự án đường sắt cao tốc Bắc – Nam nối Thái Lan với Lào và Trung Quốc là mắt xích quan trọng của hành lang kinh tế xuyên Mekong. Đồng thời, Bắc Kinh tăng cường tiếp cận tầng lớp doanh nhân và chính trị gia Thái thông qua các kênh hợp tác thương mại, du lịch và giao lưu văn hóa. Mặc dù Thái Lan vẫn duy trì quan hệ chặt chẽ với Mỹ, sự gia tăng ảnh hưởng kinh tế của Trung Quốc đang tạo ra một sự cân bằng khiến Bangkok có xu hướng thận trọng hơn trong các vấn đề liên quan đến lợi ích cốt lõi của Bắc Kinh, bao gồm cả Biển Đông. Sự đan xen của các chiến lược trên tại Lào và Thái Lan giúp Trung Quốc hình thành một vành đai bao quanh Campuchia, trong đó Campuchia đóng vai trò là điểm tựa chính trị – ngoại giao, Lào là cửa ngõ chiến lược về địa – kinh tế và Thái Lan là mắt xích kết nối kinh tế – hậu cần. Cấu trúc này cho phép Trung Quốc mở rộng sức mạnh trong tiểu vùng Mekong một cách tổng hợp, đồng thời làm suy yếu khả năng liên kết của các quốc gia còn lại, đặc biệt là Việt Nam. Về phương diện chiến lược, Trung Quốc đang thiết lập một không gian ảnh hưởng có chiều sâu, vừa kiểm soát hạ tầng then chốt, vừa tác động tới tầng nhận thức của giới tinh hoa chính trị – kinh tế tại các quốc gia Mekong.

Tác động khu vực được thể hiện một cách trực tiếp thông qua quyền kiểm soát gián tiếp các nguồn tài nguyên và dòng chảy tự nhiên, đặc biệt là dòng Mekong. Khi Campuchia trở thành mắt xích ổn định, Bắc Kinh có thể gián tiếp kiểm soát các quyết định liên quan đến khai thác thủy điện, thủy lợi, và quản lý nguồn nước, từ đó tác động tới các quốc gia hạ lưu như Việt Nam và Thái Lan. Điều này không chỉ ảnh hưởng tới sinh kế và nông nghiệp mà còn tạo ra lợi thế đàm phán chính trị cho Trung Quốc trong các vấn đề an ninh khu vực. Mặt trận Thống nhất, trong bối cảnh này, không chỉ là công cụ huy động nguồn lực nội bộ mà còn là phương tiện duy trì và mở rộng ảnh hưởng xuyên biên giới, biến các đồng minh mềm trở thành các mắt xích trong một sơ đồ quyền lực chiến lược. Từ góc nhìn này, Campuchia không đơn thuần là đối tác song phương mà là một bàn đạp chiến lược cho Bắc Kinh, một sân khấu thử nghiệm cho khả năng tập hợp lực lượng, vận hành ngoại giao nhân dân, và triển khai sức mạnh mềm trên quy mô khu vực.

Thành công của chiến lược này nằm ở khả năng tạo ra đồng thuận xã hội và chính trị một cách tinh vi, nơi các nhóm xã hội, cộng đồng, trí thức, và tinh hoa chính trị được tích hợp vào một cơ chế vận hành liền mạch, đồng thời tạo ra động lực chính trị để các quyết định quan trọng thuận theo lợi ích chiến lược của Bắc Kinh. Hệ thống này cho thấy sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa quyền lực mềm và cơ chế điều phối xã hội, làm giảm khả năng phản kháng, với tác động lâu dài tới khả năng tự quyết định của Campuchia. Tuy nhiên, sức mạnh này cũng ẩn chứa rủi ro Campuchia, khi trở thành mắt xích then chốt trong mạng lưới ảnh hưởng của Trung Quốc, dễ mất dần khả năng hoạch định chính sách độc lập, trong khi tác động lan tỏa tới Mekong và Đông Nam Á làm suy yếu hiệu lực tập thể của ASEAN trong các vấn đề quan trọng như Mekong hay Biển Đông. Điển hình là năm 2012, khi Campuchia làm Chủ tịch ASEAN, nước này đã ngăn cản ra tuyên bố chung về Biển Đông, đánh dấu một bước ngoặt khiến ASEAN khó duy trì đồng thuận trong các vấn đề nhạy cảm, ngoài Biển Đông, Campuchia cũng thường tránh chỉ trích Trung Quốc trong các vấn đề an ninh phi truyền thống, ví dụ như quản lý nguồn nước Mekong nơi các đập thủy điện của Trung Quốc làm gia tăng căng thẳng về an ninh lương thực, sinh kế và môi trường. Sự nghiêng hẳn về Trung Quốc của Campuchia làm ASEAN bị chia rẽ sâu sắc trong cách tiếp cận những thách thức này, khiến tổ chức này khó xây dựng chiến lược chung. Xu hướng này làm thay đổi cán cân ảnh hưởng ở Mekong theo hướng nghiêng về Trung Quốc. So với Mỹ và các đồng minh như Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Quốc sở hữu lợi thế vượt trội về tốc độ triển khai dự án, quy mô vốn và mạng lưới Hoa kiều hỗ trợ thực thi.

Trên bình diện chiến lược, công tác Mặt trận Thống nhất tại Campuchia có thể được nhìn nhận như một hình mẫu cho cách Trung Quốc triển khai ngoại giao nhân dân. Hơn nữa, hiệu quả không đo lường bằng các con số kinh tế hay diện tích dự án, mà bằng khả năng huy động lực lượng, biến lợi ích xã hội thành ảnh hưởng chính trị và đặt các quốc gia láng giềng vào một quỹ đạo phụ thuộc nhất định. Hệ thống Mặt trận Thống nhất tại đây không phô trương quyền lực nhưng vận hành uyển chuyển, lặng lẽ định hình ý chí chính trị, tư tưởng và cấu trúc xã hội, qua đó cho thấy một cách thức triển khai sức mạnh mềm đầy tinh vi nhưng cũng đầy ẩn ý trong việc mở rộng ảnh hưởng khu vực.

Có thể thấy bản chất của tổ chức Mặt trận đã có những thay đổi, khi không chỉ là một công cụ nhằm phát huy sự đoàn kết dân tộc trong nước, ổn định chiến lược quốc nội mà còn mở rộng ra ngoài biên giới, trở thành một vũ khí chiến lược khu vực, nơi ngoại giao nhân dân được sử dụng để biến các quyết định xã hội và chính trị thành lợi ích chiến lược lâu dài của Trung Quốc. Hiệu quả của chiến lược này không chỉ được đánh giá qua mức độ đồng thuận xã hội hay chính trị mà còn qua khả năng tạo ra một sơ đồ quyền lực, nơi các nước láng giềng, phải đối mặt với các áp lực và ràng buộc gián tiếp, làm thay đổi bản chất tương tác và chiến lược hợp tác khu vực.

Tác động và một số hàm ý đối với Việt Nam

Quan hệ Việt Nam – Campuchia vốn có nền tảng lịch sử, văn hóa và địa chính trị chặt chẽ, song đang chịu tác động mạnh từ chiến lược mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc. Trong giai đoạn sau 2012, khi Trung Quốc đẩy mạnh các công cụ thông qua cộng đồng người Hoa tại Campuchia, quan hệ Việt Nam – Campuchia xuất hiện những biến số mới

Cán cân ảnh hưởng đang thay đổi, Trung Quốc hiện là nhà đầu tư lớn nhất tại Campuchia, điều này khiến Phnom Penh phụ thuộc sâu vào Bắc Kinh trong các lĩnh vực chiến lược như hạ tầng, năng lượng và quốc phòng. Trong khi đó, thương mại song phương Việt Nam – Campuchia đạt 10,57 tỷ USD năm 2022[14], cao hơn nhiều so với một thập kỷ trước nhưng vẫn thiếu sự cạnh tranh về quy mô với Trung Quốc. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng duy trì vị thế truyền thống của Việt Nam. Các công cụ ngoại giao nhân dân của Trung Quốc tạo ra khoảng cách mềm trong quan hệ Việt Nam – Campuchia. Mặt trận Thống nhất và các hội người Hoa được sử dụng để củng cố lòng tin chính trị và ảnh hưởng xã hội của Trung Quốc. Điều này vô hình trung làm suy giảm ảnh hưởng mềm của Việt Nam, vốn chủ yếu dựa trên các yếu tố lịch sử và hợp tác giáo dục – văn hóa.

Ngoài hiện diện kinh tế, sự hợp tác quốc phòng giữa Campuchia và Trung Quốc cũng đang gia tăng đáng kể, làm dấy lên quan ngại chiến lược cho Việt Nam và các nước ASEAN khác. Hằng năm, hai nước tổ chức các cuộc tập trận chung quy mô lớn, điển hình là cuộc tập trận “Rồng Vàng” với hơn 2.000 quân nhân từ hai bên trong đó Campuchia đóng góp 1.331 người, Trung Quốc 845 người cùng nhiều trang bị hiện đại như xe bọc thép, khí tài, máy bay không người lái, trực thăng, vũ khí hạng nặng, tàu chiến[15]… Đặc biệt, việc Trung Quốc hỗ trợ hiện đại hóa cảng Ream tại tỉnh Sihanoukville đã làm dấy lên nghi vấn về khả năng Bắc Kinh được quyền tiếp cận quân sự lâu dài tại vị trí chiến lược này. Dù Phnom Penh nhiều lần phủ nhận cho phép Trung Quốc thiết lập căn cứ quân sự, các hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng, bến tàu cỡ lớn và khu hậu cần phục vụ tàu chiến vẫn khiến dư luận quốc tế và các nước láng giềng lo ngại. Nếu Trung Quốc có thể duy trì sự hiện diện quân sự thường trực tại Ream, điều này không chỉ ảnh hưởng đến thế cân bằng trên Biển Đông mà còn tác động trực tiếp đến an ninh vùng biên giới Tây Nam của Việt Nam. Điều này vô hình chung kéo theo vấn đề biên giới và an ninh phi truyền thống cũng trở nên phức tạp hơn càng làm gia tăng lo ngại về cửa ngõ chiến lược phía Tây Nam. Thêm vào đó, dòng người di cư lao động, tội phạm mạng và đánh bạc trực tuyến có liên quan đến mạng lưới người Hoa đang gia tăng, tác động đến quản trị an ninh ở các tỉnh biên giới Việt Nam. Trong bối cảnh này, quan hệ Việt Nam – Campuchia đang đối diện yêu cầu phải tái cân bằng chiến lược, vừa củng cố hợp tác kinh tế –  chính trị, vừa chủ động điều chỉnh các kênh giao lưu nhân dân để thích ứng với sự cạnh tranh ảnh hưởng ngày càng gay gắt từ Trung Quốc.

Công tác Mặt trận Thống nhất của Trung Quốc cũng tác động rất lớn qua cộng đồng người Hoa tại Việt Nam. Với hàng trăm nghìn người Hoa sinh sống, chủ yếu tại TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam là một trong những quốc gia Đông Nam Á có cộng đồng Hoa kiều đông đảo. Trong khi phần lớn cộng đồng này đã hội nhập sâu vào xã hội Việt Nam, một số tổ chức tôn giáo, văn hóa vẫn duy trì liên hệ với các hội đoàn Hoa kiều tại Campuchia và Trung Quốc. Các chương trình hướng về tổ quốc”của Ban Công tác Hoa kiều Trung Quốc như học bổng, giao lưu văn hóa và hoạt động thiện nguyện có thể tạo ra sự tiếp biến nhận thức, nhất là trong thế hệ trẻ người Hoa.

Công tác Mặt trận Thống nhất của Trung Quốc, với trọng tâm là tranh thủ cộng đồng Hoa kiều và các nhóm xã hội có thể hỗ trợ lợi ích của Bắc Kinh, vẫn âm thầm hướng vào Việt Nam với nhiều cơ chế khác nhau. Dù không thể triển khai công khai như ở Campuchia, Trung Quốc vẫn tìm cách xây dựng các kênh ảnh hưởng thông qua cộng đồng người Hoa hơn một triệu người tại Việt Nam, đặc biệt tại TP.HCM và khu vực Chợ Lớn. Thông qua các chương trình học bổng, giao lưu văn hóa, tài trợ bang hội và nền tảng truyền thông Hoa ngữ, Bắc Kinh duy trì một hành lang nhận thức hướng cộng đồng này gần hơn với Trung Quốc về văn hóa và tình cảm. Song song, các doanh nghiệp gốc Hoa trong lĩnh vực thương mại biên mậu, logistics và đầu tư cũng là kênh để hình thành sự phụ thuộc kinh tế tiềm ẩn. Về dài hạn, chiến lược này có thể bào mòn dần không gian chính sách của Việt Nam nếu không được nhận diện đầy đủ, bởi nó không chỉ tác động đến tầng cộng đồng mà còn tạo ra hạ tầng ảnh hưởng gián tiếp qua kinh tế, truyền thông và xã hội.

Một điểm ít được chú ý nhưng có ý nghĩa chiến lược là công tác Mặt trận Thống nhất của Trung Quốc tại Việt Nam không chỉ dừng ở cộng đồng người Hoa mà còn hướng tới bào mòn dần không gian chiến lược của Việt Nam trong các vấn đề khu vực. Bằng việc duy trì các kênh ảnh hưởng trong cộng đồng Hoa kiều, doanh nghiệp và truyền thông Hoa ngữ, Trung Quốc tạo ra một mạng lưới liên kết xã hội – kinh tế khó nhận diện, từ đó từng bước gia tăng đòn bẩy trong các vấn đề song phương và tiểu vùng. Đáng chú ý, mạng lưới này có thể được kích hoạt khi cần thiết để giảm sức phản kháng của Việt Nam trước các chính sách của Bắc Kinh, nhất là trong những lĩnh vực nhạy cảm. Mặt khác, việc lan tỏa qua mạng lưới doanh nghiệp và đầu tư xuyên biên giới cũng có nhiều vấn đề nổi bật. Nhiều doanh nghiệp người Hoa tại Campuchia có hoạt động kinh doanh ở khu vực biên giới Việt Nam – Campuchia, đặc biệt là An Giang, Tây Ninh và Kiên Giang. Thông qua các mạng lưới ảnh hưởng kinh tế và chính trị của Trung Quốc có thể thẩm thấu gián tiếp, tạo ra các kênh phụ thuộc mềm khó kiểm soát. Truyền thông Trung Quốc, kể cả các nền tảng xã hội như WeChat, Douyin đang mở rộng hoạt động tại Campuchia và có khả năng tác động đến cộng đồng người Hoa ở Việt Nam. Nội dung truyền thông có định hướng về chính sách và văn hóa Trung Quốc có thể ảnh hưởng đến dư luận nếu thiếu cơ chế phản biện và đa dạng hóa thông tin. Việt Nam cần nhìn nhận cơ chế Mặt trận Thống nhất không chỉ là một công cụ đối ngoại của Trung Quốc tại Campuchia, mà còn là một cấu trúc ảnh hưởng xuyên biên giới với khả năng lan tỏa lâu dài.

Việt Nam vốn có nhiều lợi thế về quan hệ chính trị và văn hóa với Campuchia nhờ lịch sử đoàn kết chống Khmer Đỏ và hợp tác phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, những lợi thế này đang bị thách thức nghiêm trọng. Thách thức về kinh tế, đầu tư và viện trợ của Việt Nam vào Campuchia dù tăng nhưng chưa thể cạnh tranh với Trung Quốc về quy mô và tốc độ. Các dự án của Trung Quốc, thường đi kèm với ưu đãi tài chính và triển khai nhanh chóng, trong khi doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế về vốn và năng lực quản trị. Trung Quốc đã thành công trong việc xây dựng mạng lưới văn hóa – giáo dục tại Campuchia với các Học viện Khổng Tử, học bổng du học, và các hoạt động giao lưu nhân dân. Việt Nam trong khi đó chưa có chương trình quy mô tương đương để củng cố hình ảnh tại Campuchia. Nhiều nhóm chính trị và xã hội ở Campuchia vẫn tồn tại định kiến lịch sử về Việt Nam. Trung Quốc đã tận dụng khoảng trống này bằng cách đẩy mạnh truyền thông tích cực, trong khi Việt Nam thiếu chiến lược truyền thông mềm để đối trọng. Để duy trì ảnh hưởng tại Campuchia, Việt Nam cần tái định hình chính sách theo hướng đa chiều và bền vững, kết hợp giữa kinh tế, văn hóa, giáo dục và truyền thông, thay vì chỉ dựa trên hợp tác chính trị truyền thống.

Từ các tác động này, không gian chiến lược Tây Nam của Việt Nam đang trở thành một điểm nóng cần được ưu tiên trong hoạch định chính sách an ninh – đối ngoại. Điều này đòi hỏi Việt Nam phải có tầm nhìn dài hạn, kết hợp giữa phát triển kinh tế vùng biên và xây dựng cơ chế hợp tác chặt chẽ với Campuchia, nhằm giảm thiểu sự phụ thuộc vào Trung Quốc và tăng cường khả năng kiểm soát rủi ro.

Thứ nhất, cần tăng cường ngoại giao nhân dân và hợp tác đa tầng với Campuchia. Việt Nam cần xây dựng một mạng lưới ngoại giao nhân dân sâu rộng tại Campuchia, không chỉ giới hạn trong quan hệ chính thức giữa chính phủ mà mở rộng đến các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, khoa học, tôn giáo và giao lưu cộng đồng. Các chương trình học bổng, trao đổi sinh viên, hợp tác nghiên cứu, giao lưu văn hóa sẽ giúp Việt Nam tạo dựng lòng tin và kết nối trực tiếp với các nhóm xã hội quan trọng tại Campuchia, đặc biệt là giới trẻ và các nhà lãnh đạo cộng đồng phi chính phủ. Việc này đồng thời giúp giảm ảnh hưởng trực tiếp của Trung Quốc thông qua các kênh ngoại giao do Bắc Kinh điều phối, vốn thường khai thác cộng đồng Hoa tại Campuchia như một công cụ để củng cố vị thế chiến lược. Thông qua hợp tác đa tầng này, Việt Nam có thể vừa phát huy ảnh hưởng, vừa xây dựng những kênh thông tin và đối trọng có sức lan tỏa, tạo cơ sở để tham gia quyết định các chính sách khu vực quan trọng liên quan đến Tây Nam, từ Mekong tới các vấn đề thương mại và an ninh.

Thứ hai, cần phát triển kinh tế vùng biên và tăng cường liên kết đa phương. Một trụ cột chiến lược quan trọng của Việt Nam là thúc đẩy phát triển kinh tế vùng biên giáp Campuchia, đặc biệt tại Tây Nam, nhằm tạo sức hút và lợi ích kinh tế rõ rệt cho địa phương, đồng thời nâng cao khả năng kiểm soát các hoạt động kinh tế – xã hội do Trung Quốc tác động thông qua cộng đồng Hoa. Việt Nam có thể triển khai các khu công nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao, và hạ tầng kết nối xuyên biên giới, đồng thời liên kết với các dự án khu vực của ASEAN để giảm thiểu sự phụ thuộc vào Trung Quốc. Cơ chế này không chỉ cải thiện đời sống và thu nhập tại vùng biên mà còn tăng khả năng dự báo và kiểm soát các rủi ro địa chính trị, đồng thời tạo lập các lợi ích đối trọng cho Campuchia khi cân nhắc giữa quan hệ với Việt Nam và Trung Quốc. Phát triển kinh tế vùng biên còn là một công cụ hữu ích để Việt Nam thâm nhập vào các luồng ảnh hưởng xã hội và kinh tế tại Tây Nam, tăng khả năng cạnh tranh trong không gian chiến lược này.

Thứ ba, liên tục tăng cường thông tin chiến lược và giám sát tác động cộng đồng Hoa. Việt Nam cần thiết lập một cơ chế giám sát và phân tích chiến lược nhằm đánh giá mức độ ảnh hưởng của cộng đồng Hoa tại Campuchia, đặc biệt các mối liên hệ với Bắc Kinh và các kênh tổng hợp mà Trung Quốc trực tiếp khai thác. Việc này bao gồm nghiên cứu chi tiết các tổ chức xã hội, mạng lưới giáo dục, tôn giáo, và các kênh truyền thông do cộng đồng Hoa kiểm soát, nhằm nhận diện các tác động tiềm tàng lên chính sách Campuchia cũng như khả năng ảnh hưởng tới lợi ích Việt Nam tại Tây Nam. Song song, cần xây dựng các kịch bản ứng phó linh hoạt, từ ngoại giao song phương đến hợp tác khu vực ASEAN, nhằm giảm thiểu rủi ro từ các chiến lược mặt trận thống nhất của Trung Quốc. Khi có dữ liệu và đánh giá định kỳ, Việt Nam có thể xác lập các chính sách chủ động hơn, kết hợp tác chiến lược kinh tế, văn hóa và ngoại giao nhân dân, đồng thời nâng cao khả năng phòng thủ mềm trước sự lan tỏa ảnh hưởng chính trị của Trung Quốc thông qua cộng đồng Hoa tại Campuchia.

Một số vấn đề cho Việt Nam về công tác đối với người Việt hải ngoại

Trong bối cảnh toàn cầu hóa sâu rộng và cạnh tranh ảnh hưởng chiến lược ngày càng gay gắt, cộng đồng người Việt hải ngoại không chỉ là một bộ phận máu thịt của dân tộc mà còn là lực lượng có khả năng tác động đến thế và lực quốc gia trên trường quốc tế. Với hơn 5,3 triệu người đang sinh sống tại khoảng 130 quốc gia và vùng lãnh thổ[16], người Việt hải ngoại trở thành nguồn lực chiến lược quan trọng cả về kinh tế, văn hóa, tri thức và chính trị. Tuy nhiên, công tác mặt trận đối với cộng đồng này của Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập, đặc biệt khi so sánh với cách các nước lớn như Trung Quốc khai thác nguồn lực Hoa kiều để gia tăng ảnh hưởng mềm.

Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng và sự quản lý thống nhất của Nhà nước, công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và nâng cao vị thế đất nước. Thực hiện các Nghị quyết của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, đặc biệt là Nghị quyết số 36-NQ/TW năm 2004[17] và Kết luận số 12-KL/TW năm 2021[18], các chương trình chính thống như “Ngày hội người Việt Nam ở nước ngoài”, “Xuân Quê Hương”, các hoạt động kiều học, giao lưu văn hóa và các hội đoàn doanh nhân trí thức kiều bào đã được triển khai rộng khắp. Đây là những hoạt động có sự kết nối trực tiếp giữa cộng đồng kiều bào với quê hương, tạo động lực để họ gắn bó và đóng góp nhiều hơn cho đất nước. Bên cạnh đó, hệ thống chính sách pháp luật tiếp tục được hoàn thiện theo định hướng của Đảng như Luật Quốc tịch Việt Nam sửa đổi 2014, chính sách đất đai, đầu tư, kiều hối… đã tháo gỡ nhiều vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi để kiều bào hội nhập sâu hơn vào đời sống chính trị, kinh tế – xã hội của Tổ quốc. Nhờ đó, lượng kiều hối gửi về nước duy trì ở mức cao, duy trì khoảng 15 – 16 tỷ USD mỗi năm[19], thể hiện tình cảm, niềm tin và trách nhiệm của kiều bào với quê hương, đồng thời góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

Tuy nhiên, công tác mặt trận đối với người Việt Nam ở nước ngoài vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc phục để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.

Thứ nhất, Việt Nam chưa xây dựng được một chiến lược tổng thể, dài hạn về kiều bào dưới góc độ sức mạnh mềm quốc gia. Các hoạt động đối ngoại nhân dân và văn hóa tuy được triển khai tích cực nhưng vẫn còn manh mún, dàn trải, nặng tính biểu tượng và chưa tạo được sức lan tỏa mạnh mẽ trong xã hội sở tại.

Thứ hai, vai trò cầu nối của cộng đồng kiều bào chưa được phát huy hiệu quả. Một bộ phận kiều bào chưa thực sự trở thành lực lượng tích cực trong việc quảng bá hình ảnh đất nước; nhiều người còn mặc cảm về vấn đề pháp lý, quốc tịch hoặc gặp khó khăn trong hội nhập xã hội sở tại, đặc biệt ở các địa bàn nhạy cảm như Campuchia, Lào, Thái Lan.

Thứ ba, nguồn lực dành cho công tác kiều bào còn phân tán, thiếu tính hệ thống, các hoạt động hỗ trợ pháp lý, kinh tế, giáo dục – văn hóa chưa được đầu tư bài bản. Đáng chú ý, Việt Nam hiện chưa có các trung tâm văn hóa, giáo dục ở nước ngoài có quy mô tương đương với “Học viện Khổng Tử” của Trung Quốc để quảng bá tiếng Việt và văn hóa một cách chuyên nghiệp.

Thứ tư, Việt Nam chưa hình thành cơ chế nghiên cứu, dự báo và cảnh báo sớm về các tác động từ chiến lược ảnh hưởng mềm của các cường quốc thông qua cộng đồng kiều dân, dẫn đến một số trường hợp phản ứng chính sách còn bị động, đặc biệt tại các địa bàn chiến lược như Campuchia.

Bối cảnh này đặt ra cho Việt Nam yêu cầu cấp bách phải xem lại cách tiếp cận với cộng đồng người Việt hải ngoại. Đây không chỉ là vấn đề nhân văn, gắn kết cộng đồng kiều bào với Tổ quốc, mà còn là nhiệm vụ chiến lược để nâng cao sức mạnh mềm và củng cố thế chủ động quốc gia trong cạnh tranh ảnh hưởng khu vực. Trung Quốc đầu tư có hệ thống cho cộng đồng Hoa kiều. Chính phủ Trung Quốc ban hành nhiều chính sách hỗ trợ về tài chính, pháp lý, giáo dục và chính trị cho người Hoa ở nước ngoài, nhằm tạo cho họ cảm giác an toàn và gắn bó với Tổ quốc. Cộng đồng Hoa kiều được ưu tiên trong tiếp cận thông tin chính sách, được hỗ trợ khi gặp khó khăn ở nước sở tại và có cơ chế bảo hộ công dân mạnh mẽ. Điều này giúp hình thành lòng tin và ý thức trách nhiệm của cộng đồng đối với Trung Quốc, khiến họ trở thành lực lượng hậu thuẫn chính trị và kinh tế quan trọng. Không những thế Trung Quốc còn thiết lập cơ sở hạ tầng văn hóa – giáo dục bài bản để duy trì bản sắc văn hóa và ngôn ngữ. Hệ thống Học viện Khổng Tử với hơn 500 cơ sở trên thế giới, các trường Hoa ngữ ở hải ngoại, cùng mạng lưới báo chí truyền hình bằng tiếng Trung như CCTV, Xinhua… tạo ra một không gian văn hóa chung cho cộng đồng người Hoa. Đây không chỉ là kênh quảng bá văn hóa mà còn là công cụ định hướng tư tưởng, bảo vệ và lan tỏa câu chuyện Trung Quốc trên trường quốc tế.

Từ những thực tế này có thể khẳng định, Việt Nam cũng cần chú trọng phải xây dựng một cơ chế mặt trận đối với người Việt hải ngoại mang tính chiến lược, đồng bộ và có chiều sâu, thay vì chỉ tập trung vào các hoạt động hữu nghị truyền thống. Với khoảng 5,3 triệu người Việt Nam đây là một nguồn lực lớn về kinh tế, tri thức và ngoại giao nếu được kết nối một cách bài bản. Việc học hỏi mô hình của Trung Quốc không có nghĩa là sao chép cơ học, mà cần vận dụng sáng tạo phù hợp với điều kiện và chính sách đại đoàn kết dân tộc của Việt Nam. Để gia tăng ảnh hưởng và phát huy sức mạnh mềm thông qua cộng đồng kiều bào, Việt Nam cần xây dựng và triển khai một chiến lược tổng thể, có tính dài hạn, đồng bộ từ trung ương đến địa phương, từ ngoại giao chính thức đến ngoại giao nhân dân.

Thứ nhất, cần xây dựng chiến lược quốc gia về cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Chiến lược này phải xác định rõ mục tiêu kiều bào vừa là đối tượng được Đảng và Nhà nước chăm lo, vừa là một lực lượng quan trọng góp phần nâng cao vị thế và sức mạnh tổng hợp của đất nước. Để bảo đảm hiệu quả, chiến lược cần thiết lập các chỉ số đánh giá cụ thể như tỷ lệ người Việt có giấy tờ hợp pháp, mức độ tham gia chính trị – xã hội tại nước sở tại, hay vai trò của cộng đồng kiều bào trong việc quảng bá hình ảnh Việt Nam và vận động chính sách quốc tế. Cần tập trung ổn định pháp lý và xã hội cho cộng đồng kiều bào tại các địa bàn nhạy cảm, đặc biệt là Campuchia nơi có nhiều vấn đề về quốc tịch và giấy tờ cư trú. Việt Nam cần phối hợp chặt chẽ với chính quyền sở tại để tháo gỡ các vướng mắc pháp lý, giúp người Việt có thể tiếp cận giáo dục, y tế và cơ hội việc làm. Song song, cần đẩy mạnh các chương trình hỗ trợ kinh tế – xã hội như tín dụng vi mô, đào tạo nghề, học bổng cho con em kiều bào để nâng cao vị thế xã hội, giúp cộng đồng người Việt trở thành một thành tố tích cực, ổn định và có uy tín tại nước sở tại. Một trong những định hướng then chốt là đầu tư cơ sở hạ tầng văn hóa – giáo dục ở nước ngoài, trước mắt ưu tiên các địa bàn trọng điểm như Phnom Penh và những trung tâm kiều bào lớn tại châu Âu, Mỹ, Úc. Các Trung tâm Việt ngữ và Văn hóa Việt Nam có thể đóng vai trò tương tự như Học viện Khổng Tử của Trung Quốc, trở thành nơi quảng bá tiếng Việt, văn hóa và lịch sử Việt Nam một cách bài bản. Việt Nam cũng cần mở rộng mạng lưới dạy tiếng Việt, kết nối với các trường đại học lớn tại nước sở tại để hình thành thế hệ trí thức trẻ có hiểu biết và thiện cảm với Việt Nam lực lượng có ảnh hưởng lâu dài đến xã hội sở tại.

Thứ hai, cần huy động sức mạnh của mạng lưới người Việt toàn cầu. Cộng đồng doanh nhân, chuyên gia, trí thức Việt kiều phải được kết nối để hỗ trợ lẫn nhau, đồng thời hỗ trợ cộng đồng tại các địa bàn trọng yếu về vốn, kỹ năng và quan hệ xã hội. Khuyến khích kiều bào tích cực tham gia các hoạt động xã hội, từ thiện và các chương trình cộng đồng tại nước sở tại sẽ vừa nâng cao hình ảnh người Việt, vừa gia tăng uy tín của Việt Nam trong mắt cộng đồng quốc tế. Một định hướng quan trọng khác là tăng cường truyền thông và xây dựng hình ảnh Việt Nam hiện đại. Việt Nam cần hợp tác với các cơ quan truyền thông sở tại để sản xuất những nội dung đa dạng, phản ánh một hình ảnh Việt Nam năng động, sáng tạo, thân thiện và có trách nhiệm quốc tế. Đồng thời, cần xây dựng các kênh truyền thông số bằng tiếng bản địa, đặc biệt hướng tới giới trẻ lực lượng dễ bị tác động bởi các luồng thông tin không chính thống. Việc chủ động cung cấp thông tin sẽ giúp tránh khoảng trống truyền thông, không để những nguồn tin bất lợi chiếm lĩnh dư luận.

Thứ ba, Việt Nam cần thiết lập cơ chế nghiên cứu và cảnh báo sớm về các chiến lược ảnh hưởng mềm của các cường quốc thông qua cộng đồng kiều dân. Điều này có thể thực hiện bằng cách thành lập mạng lưới chuyên gia đa ngành tại các viện nghiên cứu, trường đại học và cơ quan ngoại giao, kết hợp ứng dụng công nghệ phân tích dữ liệu lớn để theo dõi và nhận diện sớm các xu hướng. Việc này không chỉ giúp Việt Nam chủ động trong hoạch định chính sách, mà còn nâng cao năng lực bảo vệ lợi ích quốc gia trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược ngày càng phức tạp tại nhiều khu vực, nhất là tiểu vùng Mekong. Việc triển khai các định hướng trên một cách đồng bộ và nhất quán sẽ giúp Việt Nam không chỉ củng cố cộng đồng người Việt ở nước ngoài, mà còn biến cộng đồng kiều bào trở thành một lực lượng quan trọng, góp phần nâng cao vị thế quốc gia và tạo ra sức mạnh tổng hợp trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Cộng đồng người Việt hải ngoại vừa là bộ phận máu thịt của dân tộc, là khúc ruột ngàn dặm của Tổ Quốc, vừa là nguồn lực chiến lược góp phần bảo vệ và nâng cao vị thế quốc gia. Trong bối cảnh ASEAN bị phân hóa bởi cạnh tranh ảnh hưởng, vấn đề an ninh phi truyền thống ở tiểu vùng Mekong phức tạp hơn, khoảng trống ảnh hưởng mềm nếu không được lấp đầy bởi Việt Nam sẽ nhanh chóng bị các thế lực khác chiếm lĩnh. Điều này đặc biệt nguy hiểm tại Campuchia, nơi Việt Nam có lợi ích chiến lược gắn bó nhưng cộng đồng kiều bào còn đối diện nhiều khó khăn về pháp lý và xã hội. Gia tăng ảnh hưởng thông qua cộng đồng người Việt hải ngoại không có nghĩa là áp đặt hay can thiệp vào công việc nội bộ nước sở tại, mà là xây dựng những cầu nối xã hội bền vững, vừa giúp kiều bào ổn định cuộc sống, vừa góp phần tạo dựng hình ảnh Việt Nam tích cực và đáng tin cậy. Đây là một trong những giải pháp quan trọng để Việt Nam chủ động hơn trong môi trường chiến lược đầy biến động, đồng thời củng cố thế và lực quốc gia trong dài hạn.

Kết luận

Từ năm 2012 đến nay, mạng lưới người Hoa tại Campuchia ngày càng trở thành một trụ đỡ quan trọng trong triển khai công tác mặt trận thống nhất của Trung Quốc, vượt ra ngoài phạm vi đoàn kết cộng đồng để vươn tới mục tiêu định hình nhận thức, chuẩn mực hành xử và trật tự biểu tượng có lợi cho Bắc Kinh. Trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược Mỹ – Trung và sự trở lại mạnh mẽ của Nhật Bản tại Đông Nam Á, mạng lưới này không chỉ là công cụ kết nối mà còn là phương tiện định hình luật chơi, tạo ra không gian ảnh hưởng mới nơi Trung Quốc có thể tác động từ tầng cộng đồng lên tầng chính sách. Ở Campuchia, sự dung hòa giữa lợi ích nhà nước sở tại và sức mạnh mềm từ cộng đồng người Hoa đã mở ra khả năng thâm nhập sâu, tinh vi và bền bỉ một dạng đánh vu hồi vào cấu trúc ý thức và xã hội của các nước trong khu vực.

Đối với Việt Nam, mạng lưới này cần được nhìn nhận không đơn thuần như dòng chảy cộng đồng mà như một biến số chiến lược nơi công tác mặt trận thống nhất được đặt trong thế chủ động đi trước, từng bước cài cắm ảnh hưởng có thể lan vào các tầng nội sinh của quốc gia khác. Điều này đòi hỏi Việt Nam củng cố năng lực nhận diện và quản trị ảnh hưởng, nâng cao dự báo chiến lược, đồng thời phát triển các kênh tương tác cộng đồng mang tính chủ động hơn. Chỉ khi nhận thức đầy đủ tính hệ thống của hiện tượng này, Việt Nam mới có thể bảo đảm được biên độ tự chủ trong một môi trường địa chính trị đang biến động mạnh và đầy tính cạnh tranh cấu trúc./.

Tác giả: Trương Quốc Lượng

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của Nghiên cứu Chiến lược. Mọi trao đổi học thuật và các vấn đề khác, quý độc giả có thể liên hệ với ban biên tập qua địa chỉ mail: [email protected]

Tài liệu tham khảo

[1] 王京. 中国革命取得成功的“三大法宝”是什么?. 中国共产党新闻. https://cpc.people.com.cn/GB/64156/64157/4418419.html

[2] China Daily. (2015). Xi urges strengthening of united front. https://www.chinadaily.com.cn/china/2015-05/21/content_20785494.htm

[3] Joske, A. (2019). Reorganizing the United Front Work Department: New Structures for a New Era of Diaspora and Religious Affairs Work. China Brief, 19(9). https://jamestown.org/reorganizing-the-united-front-work-department-new-structures-for-a-new-era-of-diaspora-and-religious-affairs-work/

[4] People’s Daily Online. (2021). Full Text: China: Democracy That Works. https://en.people.cn/n3/2021/1204/c312369-9928374.html

[5] Cambodianess. (2021). When Did the Chinese Come to Cambodia?. https://cambodianess.com/article/when-did-the-chinese-come-to-cambodia

[6] W.E.WILLMOTT. (2004). THE POLITICAL STRUCTURE OF THE CHINESE COMMUNITY IN CAMBODIA. Title of document. (trang 6-7). https://api.pageplace.de/preview/DT0400.9781000320923_A40656624/preview-9781000320923_A40656624.pdf

[7] United States Holocaust Memorial Museum (USHMM). Cambodia: 1975–1979. https://www.ushmm.org/information/exhibitions/museum-exhibitions/cambodia-1975

[8] Fresh News Asia. Cambodia ranked 3rd most populous country in SE Asia for Chinese, their descendants. https://m.en.freshnewsasia.com/index.php/en/977-cambodia-ranked-3rd-most-populous-country-in-se-asia-for-chinese-their-descendants.html

[9] Country Studies. Cambodia — The Chinese. https://country-studies.com/cambodia/the-chinese.html

[10] Cambodianess. (2025). Chinese, Cambodian Investments Top Development Chart. https://cambodianess.com/article/chinese-cambodian-investments-top-development-chart

[11] AFID. (2022). Foreign Direct Investment into Cambodia hits $41B since 1994. https://afid.cdc.gov.kh/news/foreign-direct-investment-into-cambodia-hits-41b-since-1994/

[12] The Cambodia Daily. (2010). Massive Chinese Tourism Project is Underway, Officials Say. https://english.cambodiadaily.com/2010/07/08/massive-chinese-tourism-project-is-underway-officials-say/

[13] State Council Information Office of the People’s Republic of China. (2023). Cambodian PM hails China’s BRI as key role in development of Cambodia, ASEAN. http://english.scio.gov.cn/m/beltandroad/2023-06/08/content_86680654.htm 

[14] Vietnam News. (2024). Việt Nam, Cambodia look forward to $20 billion trade. https://vietnamnews.vn/economy/1658245/viet-nam-cambodia-look-forward-to-20-billion-trade.html

[15] Cambodianess. (2025). Over 2,000 Cambodian and Chinese Soldiers Join Drill. https://cambodianess.com/article/over-2000-cambodian-and-chinese-soldiers-join-drill

[16] VOV. (2023). Overseas Vietnamese contribute to national development. https://english.vov.vn/en/society/overseas-vietnamese-contribute-to-national-development-post996574.vov

[17] Caselaw.vn. (2004). Nghị quyết số 36-NQ/TW về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. https://caselaw.vn/van-ban-phap-luat/136557-nghi-quyet-so-36-nq-tw-ve-viec-cong-tac-doi-voi-nguoi-viet-nam-o-nuoc-ngoai-do-bo-chinh-tri-ban-hanh

[18] Ủy ban Nhà nước về Người Việt Nam ở Nước ngoài. (2021). Kết luận 12-KL/TW của Bộ Chính trị về công tác người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới. scov.gov.vn. https://scov.gov.vn/cong-tac-ve-nvnonn/ket-luan-cua-bo-chinh-tri-ve-cong-tac-nvnonn-trong-tinh-hinh-moi/ket-luan-so-12-kl-tw-cua-bo-chinh-tri-ve-cong-tac-nguoi-viet-nam-o-nuoc-ngoai-trong-tinh-hinh-moi.html

[19] Mai Anh. (2024). Kiều hối cả nước năm 2023 đạt 16 tỷ USD. VietnamFinance. https://vietnamfinance.vn/kieu-hoi-ca-nuoc-nam-2023-dat-16-ty-usd-d106388.html

Tags: Hải ngoạiMặt trận thống nhất dân tộcNgười Hoa
ShareTweetShare
Bài trước

Kinh tế thế giới năm 2025, một số dự báo năm 2026 và một số vấn đề đặt ra đối với nền kinh tế Việt Nam

  • Thịnh Hành
  • Bình Luận
  • Latest
Cuba đương đầu với những thách thức chính trị trong nước

Cuba đương đầu với những thách thức chính trị trong nước

22/06/2025
Tin đồn về sự lung lay quyền lực của Tập Cận Bình: Hiện thực hay chỉ là biểu hiện của chiến tranh nhận thức?

Tin đồn về sự lung lay quyền lực của Tập Cận Bình: Hiện thực hay chỉ là biểu hiện của chiến tranh nhận thức?

04/06/2025
Tình hình xung đột tại Myanmar sau 3 năm: Diễn biến, tác động và dự báo

Tình hình xung đột tại Myanmar sau 3 năm: Diễn biến, tác động và dự báo

30/01/2024
Châu Á – “thùng thuốc súng” của Chiến tranh thế giới thứ ba

Châu Á – “thùng thuốc súng” của Chiến tranh thế giới thứ ba

18/09/2024
Xung đột quân sự Thái Lan – Campuchia: Cuộc chiến không có người chiến thắng

Xung đột quân sự Thái Lan – Campuchia: Cuộc chiến không có người chiến thắng

27/07/2025
Làn sóng biểu tình ở Indonesia: thực trạng, dự báo và vấn đề đặt ra đối với Việt Nam

Làn sóng biểu tình ở Indonesia: thực trạng, dự báo và vấn đề đặt ra đối với Việt Nam

01/09/2025
Tình hình Biển Đông từ đầu năm 2024 đến nay và những điều cần lưu ý

Tình hình Biển Đông từ đầu năm 2024 đến nay và những điều cần lưu ý

06/05/2024
Dấu hiệu cách mạng màu trong khủng hoảng chính trị ở Bangladesh?

Dấu hiệu cách mạng màu trong khủng hoảng chính trị ở Bangladesh?

07/08/2024
Triển vọng phát triển tuyến đường thương mại biển Á – Âu qua Bắc Băng Dương

Triển vọng phát triển tuyến đường thương mại biển Á – Âu qua Bắc Băng Dương

2
Khả năng phát triển của các tổ chức an ninh tư nhân Trung Quốc trong những năm tới

Khả năng phát triển của các tổ chức an ninh tư nhân Trung Quốc trong những năm tới

2
4,5 giờ đàm phán cấp cao Mỹ – Nga: cuộc chiến tại Ukraine liệu có cơ hội kết thúc?

Những điều đáng chú ý trong cuộc đàm phán Ngoại trưởng Nga – Mỹ tại Saudi Arabia

2
Tin đồn về sự lung lay quyền lực của Tập Cận Bình: Hiện thực hay chỉ là biểu hiện của chiến tranh nhận thức?

Tin đồn về sự lung lay quyền lực của Tập Cận Bình: Hiện thực hay chỉ là biểu hiện của chiến tranh nhận thức?

2
Liệu đã đến thời điểm nghĩ tới đàm phán hòa bình với Nga và các điều khoản sẽ thế nào?

Liệu đã đến thời điểm nghĩ tới đàm phán hòa bình với Nga và các điều khoản sẽ thế nào?

1
Quan hệ Nga-Trung-Triều phát triển nhanh chóng và hệ lụy đối với chiến lược của phương Tây

Quan hệ Nga-Trung-Triều phát triển nhanh chóng và hệ lụy đối với chiến lược của phương Tây

1
Campuchia triển khai Chiến lược Ngũ giác và những hàm ý đối với Việt Nam

Campuchia triển khai Chiến lược Ngũ giác và những hàm ý đối với Việt Nam

1
Nhìn nhận về quan hệ Nga – Triều hiện nay: Vị thế của một tiểu cường sở hữu vũ khí hạt nhân

Nhìn nhận về quan hệ Nga – Triều hiện nay: Vị thế của một tiểu cường sở hữu vũ khí hạt nhân

1
Vai trò của mạng lưới người Hoa tại Campuchia trong công tác mặt trận thống nhất Trung Quốc: Tác động khu vực và hàm ý cho Việt Nam

Vai trò của mạng lưới người Hoa tại Campuchia trong công tác mặt trận thống nhất Trung Quốc: Tác động khu vực và hàm ý cho Việt Nam

14/12/2025
Kinh tế thế giới năm 2025, một số dự báo năm 2026 và một số vấn đề đặt ra đối với nền kinh tế Việt Nam

Kinh tế thế giới năm 2025, một số dự báo năm 2026 và một số vấn đề đặt ra đối với nền kinh tế Việt Nam

12/12/2025
Trung Quốc – “Đồng minh” của Châu Âu trong bối cảnh bế tắc?

Trung Quốc – “Đồng minh” của Châu Âu trong bối cảnh bế tắc?

10/12/2025
Dấu ấn Ngoại giao Việt Nam năm 2025 và dự báo năm 2026

Dấu ấn Ngoại giao Việt Nam năm 2025 và dự báo năm 2026

08/12/2025
Chiến lược An ninh Quốc gia Mỹ 2025: Sự trở lại của chủ nghĩa hiện thực và hình ảnh “cảnh sát quốc tế” kiểu mới

Chiến lược An ninh Quốc gia Mỹ 2025: Sự trở lại của chủ nghĩa hiện thực và hình ảnh “cảnh sát quốc tế” kiểu mới

06/12/2025
Quan hệ Việt Nam – EU trong năm 2025 và dự báo năm 2026

Quan hệ Việt Nam – EU trong năm 2025 và dự báo năm 2026

04/12/2025
Chiến lược mới của EU cho khu vực Địa Trung Hải

Chiến lược mới của EU cho khu vực Địa Trung Hải

02/12/2025
Những “vấn đề” trong chính sách đa hướng của Nga và Trung Quốc tại Trung Đông

Những “vấn đề” trong chính sách đa hướng của Nga và Trung Quốc tại Trung Đông

30/11/2025

Tin Mới

Vai trò của mạng lưới người Hoa tại Campuchia trong công tác mặt trận thống nhất Trung Quốc: Tác động khu vực và hàm ý cho Việt Nam

Vai trò của mạng lưới người Hoa tại Campuchia trong công tác mặt trận thống nhất Trung Quốc: Tác động khu vực và hàm ý cho Việt Nam

14/12/2025
13
Kinh tế thế giới năm 2025, một số dự báo năm 2026 và một số vấn đề đặt ra đối với nền kinh tế Việt Nam

Kinh tế thế giới năm 2025, một số dự báo năm 2026 và một số vấn đề đặt ra đối với nền kinh tế Việt Nam

12/12/2025
159
Trung Quốc – “Đồng minh” của Châu Âu trong bối cảnh bế tắc?

Trung Quốc – “Đồng minh” của Châu Âu trong bối cảnh bế tắc?

10/12/2025
101
Dấu ấn Ngoại giao Việt Nam năm 2025 và dự báo năm 2026

Dấu ấn Ngoại giao Việt Nam năm 2025 và dự báo năm 2026

08/12/2025
352

Cộng đồng nghiên cứu chiến lược và các vấn đề quốc tế.

Liên hệ

Email: [email protected]; [email protected]

Danh mục tin tức

  • Bầu cử tổng thống mỹ
  • Châu Á
  • Châu Âu
  • Châu Đại Dương
  • Châu Mỹ
  • Châu Phi
  • Chính trị
  • Chuyên gia
  • Khu vực
  • Kinh tế
  • Lĩnh vực
  • Media
  • Phân tích
  • Podcasts
  • Quốc phòng – an ninh
  • Sách
  • Sự kiện
  • Sự kiện
  • Thông báo
  • Thư viện
  • TIÊU ĐIỂM – ĐẠI HỘI ĐẢNG XX TQ
  • Xã hội
  • Ý kiến độc giả
No Result
View All Result
  • Trang Chủ
  • Lĩnh vực
    • Kinh tế
    • Xã hội
    • Quốc phòng – an ninh
    • Chính trị
  • Khu vực
    • Châu Á
    • Châu Âu
    • Châu Mỹ
    • Châu Phi
    • Châu Đại Dương
  • Phân tích
    • Ý kiến độc giả
    • Chuyên gia
  • Thư viện
    • Sách
    • Tạp chí
    • Media
  • Podcasts
  • Giới thiệu
    • Ban Biên tập
    • Dịch giả
    • Đăng ký cộng tác
    • Thông báo

© 2022 Bản quyền thuộc về nghiencuuchienluoc.org.