Thủ tướng Niger, Ali Mahaman Lamine Zeine, đã từng nói về quyết định trục xuất lực lượng Mỹ của nước này: “Người Mỹ ở lại trên đất của chúng tôi mà không làm gì trong khi bọn khủng bố giết hại dân chúng và đốt cháy các thị trấn. Đó không phải là dấu hiệu của tình bạn khi đến đất của chúng tôi mà lại để bọn khủng bố tấn công chúng tôi.” Ông tiếp tục chỉ trích cái mà ông cho là “giọng điệu trịch thượng và thiếu tôn trọng” của một phái đoàn cấp cao của Mỹ khi đến thăm nước này vào giữa tháng 3/2024. Theo Zeine, các quan chức Niger cảm thấy không chỉ bị xúc phạm bởi giọng điệu trong thông điệp từ phía Mỹ mà còn bởi những yêu cầu hạn chế quan hệ an ninh với Nga và những đe dọa sẽ áp đặt lệnh trừng phạt nếu Niger bán uranium cho Iran.
Mặc dù mang tính chất vụ lợi trong nhiều khía cạnh, những cáo buộc của Zeine phản ánh mối quan hệ đã căng thẳng từ trước giữa Mỹ và Niger. Điều này phần nào liên quan đến việc Washington chấm dứt hỗ trợ an ninh sau cuộc đảo chính vào tháng 7/2023 của nước này và sự không sẵn lòng của chính quyền quân sự trong việc chấp nhận các yêu cầu từ khu vực và quốc tế về việc từ chức. Tuy nhiên, nguyên nhân sâu xa của sự thất bại của Mỹ ở Niger còn nằm sâu hơn. Việc chấm dứt sự hiện diện quân sự của Mỹ tại Niger chủ yếu là kết quả của các động lực chính trị và xã hội do sự hiện diện của Mỹ và phương Tây rộng lớn hơn tại đây.
Điều này phản ánh một vấn đề rộng lớn hơn trong việc phát triển các quan hệ đối tác an ninh với các chế độ chính trị không ổn định. Sự gia tăng lớn của hỗ trợ an ninh có thể vô tình làm suy yếu tính hợp pháp của chính quyền địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho các cuộc đảo chính. Thật vậy, nếu các nhà chức trách Mỹ tiến hành các kế hoạch mở rộng quan hệ an ninh một cách đáng kể với các quốc gia ven biển Tây Phi, họ có thể phải đối mặt với những kết quả tương tự.
Không có giải pháp chính sách đơn giản nào cho vấn đề này. Nói chung, Washington sẽ làm tốt hơn nếu giảm ưu tiên về an ninh và cạnh tranh địa chính trị toàn cầu trong các mối quan hệ khu vực của mình. Mỹ đơn giản là không có đủ khả năng để đóng góp đáng kể vào việc cải thiện môi trường an ninh khu vực theo cách trực tiếp. Thay vào đó, họ nên tập trung vào các vấn đề có thể mang lại tác động tích cực rộng rãi hơn, chẳng hạn như cải thiện khả năng tiếp cận xuất khẩu vào thị trường Mỹ, lấp đầy khoảng trống tài trợ nhân đạo và đầu tư vào các biện pháp giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu trong khu vực. Mặc dù về lý thuyết có vẻ không liên quan đến an ninh, nhưng các biện pháp như vậy có thể cải thiện đời sống người dân, cứu sống nhiều người, dù chỉ ở mức độ nhỏ nhưng hiệu quả hơn, giải quyết một số nguyên nhân gây ra tình trạng bất ổn an ninh khu vực.
Không còn được chào đón
Vào ngày 24 tháng 4, Bộ Ngoại giao Mỹ đã thông báo quyết định cuối cùng về việc rút lực lượng Mỹ khỏi Niger. Theo một thông báo chung vào ngày 19 tháng 5 do Bộ Quốc phòng Mỹ và Bộ Quốc phòng Niger đưa ra, các binh sĩ Mỹ sẽ hoàn tất việc rút quân trước ngày 15 tháng 9. Lực lượng này, với quân số chưa đến 650 binh sĩ, sẽ bàn giao các cơ sở quan trọng, bao gồm cả một căn cứ máy bay không người lái đắt tiền ở thị trấn Agadez, phía bắc Niger. Điều này diễn ra sau khi chính quyền quân sự Niger đơn phương hủy bỏ thỏa thuận về quy chế lực lượng năm 2013, vốn là cơ sở pháp lý cho các hoạt động quân sự của Mỹ tại quốc gia này.
Động thái này vừa là một sự xấu hổ cho Mỹ, vừa là một thất bại chiến lược nhỏ. Niger, ít nhất là cho đến cuộc đảo chính vào tháng 7/2023 chống lại cựu Tổng thống Mohamed Bazoum, đã từng là trung tâm tình báo khu vực chính của Mỹ. Tuy nhiên, động thái này không nên gây bất ngờ. Nó diễn ra sau khi chính quyền quân sự Niger trục xuất khoảng 1.500 binh sĩ Pháp được triển khai tại nước này để giúp chống lại các nhóm thánh chiến, và việc Niamey công khai xích lại gần Nga. Trong cả hai khía cạnh này, chính quyền quân sự Niger đã theo gương Burkina Faso và Mali, những quốc gia đã buộc lực lượng Pháp phải rời đi, với Mali còn tiến xa hơn khi trục xuất một phái bộ gìn giữ hòa bình lớn của Liên Hợp Quốc vào năm ngoái.
Việc quân nhân Nga đến Niger đã củng cố thêm một câu chuyện nhấn mạnh sự gia tăng ảnh hưởng của Nga trong khu vực. Washington có thể sẽ nhìn nhận điều này dưới góc độ Chiến tranh Lạnh như một thành công của Nga, với việc triển khai binh lính hoặc lính đánh thuê Nga tới cùng một căn cứ ở Niamey nơi trước đây từng đóng quân Mỹ, được coi là một sự sỉ nhục thêm nữa.
Góc nhìn của phương Tây so với địa phương
Đối với người ngoài, Niger dường như là một hòn đảo ổn định tương đối trong một khu vực bị bao trùm bởi các cuộc nổi dậy lớn của các nhóm thánh chiến và làn sóng đảo chính quân sự. Chiến lược chống nổi dậy của Niger, được thực hiện dưới thời Tổng thống Bazoum, dường như đang phát huy hiệu quả. Chiến lược này kết hợp hoạt động quân sự với các cuộc đối thoại ở cấp cộng đồng đrể hạn chế xung đột giữa các nhóm và tiếp cận các thành viên cấp thấp của các nhóm thánh chiến nhằm đảm bảo sự đầu hàng. Hoạt động của các nhóm thánh chiến ở Niger đã giảm dần kể từ khi Bazoum nhậm chức vào tháng 4/2021. Nói cách khác, ông là một đồng minh lý tưởng của châu Phi đối với các đối tác phương Tây của mình. Điều này đặc biệt đúng với Pháp, quốc gia đã phải rút quân khỏi cả Mali và Burkina Faso do quan hệ đối đầu với các chính quyền quân sự cứng rắn.
Với việc nhóm Wagner của Nga được triển khai tới Mali vào cuối năm 2021, định hướng ủng hộ phương Tây của Niger càng được các nhà hoạch định chính sách của Pháp và Mỹ coi trọng, trong bối cảnh họ lo ngại ngăn chặn sự mở rộng của Nga trong khu vực. Hơn nữa, với khoảng 1.100 binh sĩ đóng quân tại Niger để thực hiện các nhiệm vụ hỗ trợ an ninh và hỗ trợ thu thập thông tin tình báo từ các căn cứ máy bay không người lái lớn trong nước, Niger đóng vai trò then chốt trong chính sách an ninh khu vực của Washington. Chiến lược Quốc gia Tích hợp của Bộ Ngoại giao Mỹ năm 2022 mô tả Niger là “mắt xích quan trọng cho sự ổn định ở khu vực Sahel.”
Tuy nhiên, nếu hiểu rõ hơn về bối cảnh chính trị khu vực và Niger, có lẽ đã tránh được những hiểu lầm như vậy và phơi bày nền tảng mong manh của chính sách an ninh phương Tây ở khu vực Sahel nói chung và ở Niger nói riêng.
Trong khi các nhà hoạch định chính sách Mỹ nhìn nhận khu vực chủ yếu qua lăng kính chống lại các nhóm thánh chiến và cạnh tranh địa chính trị với Nga, nhiều người dân địa phương lại thấy sự hiện diện của phương Tây, cho đến gần đây chủ yếu là Pháp như là việc bảo vệ các chế độ chính trị không minh bạch. Điều này khuyến khích một động thái trong đó tính hợp pháp của các chính phủ địa phương bị khuếch đại bởi sự phụ thuộc về an ninh và kinh tế vào các quốc gia phương Tây. Và tính hợp pháp cũng như sự mong muốn của các quốc gia đó cũng bị đặt câu hỏi. Sự thất bại của các cường quốc nước ngoài, đi đầu là Pháp trong việc ngăn chặn hiệu quả sự lan rộng của các cuộc nổi dậy thánh chiến khu vực đã làm trầm trọng thêm vòng xoáy xuống dốc của sự thiếu tính hợp pháp lẫn nhau, làm gia tăng sự không ưa thích các can thiệp của nước ngoài trên toàn khu vực.
Tình hình hiện tại là một tình huống trong đó lợi ích của Mỹ và các đồng minh phương Tây trong việc hợp tác chặt chẽ với các chính phủ khu vực có thể xung đột với lợi ích của người dân địa phương, những người coi chính quyền của họ là tham nhũng, bóc lột và không hợp pháp. Đây có lẽ là yếu điểm cơ bản của mô hình hỗ trợ an ninh của Mỹ và phương Tây ở khu vực rộng lớn hơn, không chỉ ở Niger mà còn ở các nơi khác. Động thái này đã góp phần thúc đẩy làn sóng “chống Pháp” của khu vực trong những năm gần đây, nhằm chỉ trích sự ủng hộ của Paris đối với các chính phủ không được lòng dân và không minh bạch. Điều này ít là sản phẩm của các chiến dịch chiến tranh thông tin do Nga chỉ đạo, mà nhiều hơn là thực tế sống động của những người phải sống dưới các chính phủ bóc lột được phương Tây hậu thuẫn.
Do đó, khi các chính quyền quân sự lên nắm quyền ở Mali (trong hai cuộc đảo chính, một vào năm 2020 và một vào năm 2021), Burkina Faso (hai cuộc đảo chính vào năm 2022) và Niger (năm 2023), một cách dễ dàng để phân biệt họ với những người tiền nhiệm và biện minh cho hoạt động đảo chính là sử dụng ngôn từ về độc lập chủ quyền khỏi các thế lực nước ngoài, đặc biệt là Pháp. Điều này đã chứng tỏ hiệu quả và đã mang lại cho các chính quyền quân sự một mức độ ủng hộ từ người dân, đặc biệt là ở các khu vực đô thị chính, mà các chính quyền được bầu cử chính thức trước đó không có được.
Các nhà hoạch định chính sách Mỹ dường như đã hy vọng rằng sự hiện diện quân sự ít được chú ý hơn và không có quá khứ thuộc địa trong khu vực có thể giúp họ tránh được số phận của Pháp ở Niger. Tuy nhiên, mặc dù có sự hiện diện nhẹ hơn, vị thế của Washington ở Niger vẫn bị ảnh hưởng bởi sự ủng hộ của họ đối với các chính quyền dân sự được bầu cử mà người dân địa phương coi là không hợp pháp. Mâu thuẫn cơ bản này giữa tính hợp pháp trong nước và quốc tế, một động thái diễn ra trên toàn khu vực dường như đã bị các nhà hoạch định chính sách Mỹ hiểu sai hoặc không được coi là quan trọng khi làm cho chính phủ Niger trở thành một đối tác an ninh chính.
Căng thẳng Dân Sự – Quân Sự
Thực vậy, một đặc điểm quan trọng trong bối cảnh chính trị và thể chế của Niger mà các nhà hoạch định chính sách Mỹ và phương Tây cần cân nhắc là lịch sử kéo dài hàng thập kỷ của căng thẳng dân sự – quân sự và các cuộc đảo chính ở nước này. Các nhà hoạch định chính sách Mỹ, cũng như các đối tác Pháp và EU của họ, dường như đã đánh giá thấp nghiêm trọng nguy cơ đảo chính ở Niger. Điều này đặc biệt đáng chú ý khi nguy cơ này đã được nhiều người Niger và các quan sát viên khu vực hiểu rõ.
Nếu lịch sử lâu dài của quốc gia về các cuộc đảo chính và quan hệ dân sự-quân sự rắc rối không làm điều này rõ ràng, thì một cuộc đảo chính thất bại vào tháng 3 năm 2021 nhằm phá vỡ lễ nhậm chức của Bazoum lẽ ra đã phải như vậy. Làn sóng đảo chính khu vực sau đó cũng nên là dấu hiệu cảnh báo về nguy cơ tiềm ẩn tại Niger. Trước khi Bazoum bị lật đổ vào năm ngoái, Niger đã trải qua bốn cuộc đảo chính trước đó, gần đây nhất là vào năm 2010. Những tiền lệ này lẽ ra phải là lời cảnh báo cho các nhà tài trợ nước ngoài của Niger về nền tảng chính trị vốn dĩ mong manh của quan hệ đối tác của họ.
Khi các cuộc nổi dậy thánh chiến bùng phát ở Mali vào năm 2012 và sau đó lan rộng qua các biên giới, các cường quốc phương Tây bắt đầu cung cấp ngày càng nhiều sự hỗ trợ lực lượng an ninh cho Niger, khi đó do người tiền nhiệm của Bazoum, cựu Tổng thống Mahamadou Issoufou, điều hành. Viện trợ này đã góp phần vào một loạt các động thái đáng lo ngại trong lực lượng an ninh của Niger và giữa các lực lượng này với chính phủ. Điều này bao gồm việc gia tăng chi ngân sách quốc phòng một cách ồ ạt, kết hợp với các thực tiễn mua sắm không minh bạch, đã kích thích các cấp độ tham nhũng khổng lồ.
Hơn nữa, việc tăng cường tài chính đã làm tăng sức nặng thể chế của lực lượng quốc phòng và an ninh Niger trong hệ thống nhà nước. Điều này đặc biệt đúng với các đơn vị được ưu ái đặc biệt, bao gồm cả lực lượng bảo vệ tổng thống, đơn vị cuối cùng đã lật đổ Bazoum. Issoufou được cho là đã lo lắng về các cuộc đảo chính, đặc biệt là sau một cuộc đảo chính bị cáo buộc vào năm 2015, và đã áp dụng các biện pháp phòng ngừa đảo chính bao gồm kéo các sĩ quan quân đội cao cấp vào các mạng lưới bảo hộ.
Sự mong manh nội bộ
Một trong những sai lầm chính mà cả những nhà hoạch định chính sách Mỹ và phương Tây khác là hiểu sai việc các cuộc bầu cử tự do của Niger (theo tiêu chuẩn khu vực) như một sự thừa nhận thực sự về tính hợp pháp dân chủ. Những người ủng hộ Bazoum từ nước ngoài đặc biệt có xu hướng phóng đại những giấy phép dân chủ của ông. Là Bộ trưởng Nội vụ dưới thời người tiền nhiệm Issoufou, Bazoum đã đứng đầu trong việc chính phủ đàn áp các tiếng nói của đối lập và các cuộc biểu tình. Mặc dù các phái đoàn quan sát quốc tế nói chung đã công nhận cuộc bầu cử của ông vào năm 2020-2021 là tự do và công bằng, nhưng cuộc bầu cử này vẫn gặp các bất thường, bao gồm số phiếu bầu không thực và mức độ tham gia bầu cử không thực tế ở một số địa phương. Phe đối lập cho rằng có sự gian lận rộng rãi và các cuộc biểu tình lớn sau bầu cử đã bị đàn áp một cách bạo lực.
Dưới thời Bazoum, các nhà báo đã bị quấy rối, các cuộc biểu tình bị cấm và hoạt động của các tổ chức phi chính phủ bị hạn chế. Hơn nữa, Đảng Dân chủ và Xã hội Niger (PNDS), do Issoufou và Bazoum lãnh đạo, đã rất không được lòng dân ở những khu vực quan trọng của đất nước, bao gồm thủ đô Niamey và khu vực xung quanh Tillabéri. Thực tế, phe đối lập đã giành được 78% số phiếu ở Niamey trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2021.
Chính quyền quân sự lên nắm quyền vào tháng 7 đã khai thác sự tức giận này để giúp hợp pháp hóa quyền lực của họ. Giống như nhiều chỉ số quản trị khác, vị thế tương đối tốt hơn của Niger so với các quốc gia khác trong khu vực có thể đã làm lệch lạc nhận thức của các đối tác phương Tây về chất lượng quản trị và sự ổn định chính trị cơ bản của nước này.
Các đồng minh nước ngoài của Bazoum cũng không sai khi nhận diện ông là một nhà cải cách. Ông đã thực hiện những bước đi đúng để chống tham nhũng ở một số phần của nhà nước và làm suy yếu các mạng lưới bảo hộ quyền lực mạnh mẽ. Điều này cũng chắc chắn đã ảnh hưởng đến nhận thức của phương Tây rằng Bazoum là một đối tác đáng tin cậy. Tuy nhiên, các nhà hoạch định chính sách phương Tây có thể đã làm tốt hơn nếu chú ý đến cảnh báo của Alexis de Tocqueville rằng “thời điểm nguy hiểm nhất cho một chính phủ kém là khi nó bắt đầu tự cải cách.” Những nỗ lực chống tham nhũng của Bazoum và những nỗ lực để tập trung quyền lực cho bản thân đơn giản là đe dọa quá nhiều lợi ích sâu sắc, và dường như đã đóng vai trò chủ chốt trong kích hoạt cuộc đảo chính.
Tác động đến tương lai
Khi lực lượng Mỹ rời khỏi vùng Sahel, họ có vẻ đang tìm cách mở rộng các quan hệ đối tác với các quốc gia ven biển chính bị đe dọa bởi sự mở rộng của các nhóm thánh chiến. Tướng Michael Langley, chỉ huy của Lực lượng Mỹ ở Châu Phi, gần đây đã thăm Côte d’Ivoire và Bénin để thảo luận về việc củng cố mối quan hệ an ninh. Điều này có thể bao gồm thảo luận về các sắp xếp mới về căn cứ, đặc biệt là tại Côte d’Ivoire, quốc gia từ lâu đã là một đối tác quan trọng của Pháp trong khu vực.
Trên mặt bằng lý thuyết, Washington có nhiều điều để cung cấp cho những quốc gia này, nơi các khu vực biên giới phía bắc mong manh và nghèo nàn dễ bị các nhóm thánh chiến trong khu vực tấn công. Các chính phủ trong khu vực đều sẵn sàng hoan nghênh đào tạo bổ sung, trang thiết bị và hợp tác tình báo. Hầu hết các quốc gia này cũng giàu có hơn, mạnh mẽ hơn và có khả năng hơn các nước láng giềng ở vùng Sahel trên nhiều tiêu chí. Điều này có thể làm cho họ trở thành đối tác an ninh tiềm năng hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, tính hợp pháp dân chủ của cả hai chính phủ của Bénin và Côte d’Ivoire có thể nói là đang bị đặt dấu hỏi. Tổng thống Bénin Patrice Talon đã bỏ tù các nhân vật đối lập nổi bật và các nhà báo chỉ trích, còn phe đối lập ít có tiếng nói trong quốc hội. Tổng thống Bờ Biển Ngà Alassane Ouattara có thể sẽ tìm cách tranh cử một nhiệm kỳ tổng thống thứ tư không hợp pháp trong cuộc bầu cử tổng thống vào năm tới.
Hơn nữa, trong 20 năm qua, Côte d’Ivoire đã chứng kiến các cuộc đảo chính và nổi dậy của quân đội, các cuộc bầu cử tranh chấp bạo lực và nội chiến. Chính bản thân Ouattara cũng một phần nhờ vào sự can thiệp của quân đội Pháp sau chiến thắng bầu cử năm 2010 của ông trước tổng thống đương nhiệm Laurent Gbagbo.
Sự gia tăng tầm quan trọng chính trị từ sự phẫn nộ của công chúng đối với chính sách của Pháp phần nào giải thích cho các quyết định gần đây của Pháp về việc giảm đáng kể sự hiện diện quân sự của họ ở khu vực, bao gồm cả ở Côte d’Ivoire. Như tình hình tại Niger đã cho thấy, Mỹ cũng không miễn nhiễm với tác động chính trị của những cảm xúc phổ biến như vậy. Nếu có sự thay đổi chính quyền ở bất kỳ đối tác nào khác của mình, Washington có thể nhìn thấy nền tảng chính trị của các mối quan hệ an ninh của mình nhanh chóng sụp đổ. Thực tế, sự hiện diện của Washington có thể góp phần vào việc làm điều này xảy ra.
Tiến về phía trước
Châu Phi có một lịch sử lâu dài về các can thiệp quân sự và sự tham gia an ninh của phương Tây nhằm ổn định và đối phó với các mối đe dọa an ninh. Ít trong số những can thiệp này có lợi ích lâu dài cho người dân địa phương. Ở khu vực Sahel, sự hỗ trợ an ninh của phương Tây nói chung đã thu được lợi ích hạn chế. Ngay cả khi nó đã cải thiện khả năng ở mức chiến thuật hoặc điều hành (tác động khó đo lường), nhưng ảnh hưởng hệ thống của nó đã góp phần vào việc thực hiện các cuộc đảo chính và sự tức giận của người dân đối với các nhà bảo trợ phương Tây của chính phủ vùng lân cận.
Điều này đã khiến các nhà hoạch định chính sách thận trọng khi mở rộng các nỗ lực hỗ trợ an ninh ở những nơi khác trong khu vực. Nó đặc biệt đúng đối với các khoản chi tốn kém như việc xây dựng các căn cứ lớn hoặc triển khai quân thường trực. Có lẽ không có cách nào hiệu quả để cung cấp hỗ trợ an ninh mà không trao quyền cho chính các lực lượng quân sự và các tác nhân nhà nước khác, những người chịu trách nhiệm làm trầm trọng thêm các cuộc nổi dậy khu vực thông qua vi phạm quyền con người, tham nhũng và các vụ thảm sát. Hơn nữa, không thể huấn luyện quân đội đối tác để không tiến hành các cuộc đảo chính.
Thay vào đó, chính sách khu vực của Mỹ sẽ được phục vụ tốt hơn bằng cách giảm ưu tiên các vấn đề an ninh hoàn toàn. Một cách tiếp cận hiệu quả hơn và ít gây tổn hại hơn sẽ dựa trên sự nhận thức rằng việc can thiệp an ninh ở các quốc gia mong manh thường gây nhiều tác hại hơn là lợi ích, và các hành động ở mức độ nhỏ lẻ có thể chứng tỏ có hiệu quả hơn. Các hành động như vậy bao gồm việc lấp đầy các thiếu hụt lớn trong tài trợ nhân đạo khu vực và cung cấp quyền tiếp cận tốt hơn vào các thị trường của Mỹ cho các nhà sản xuất nông nghiệp trên toàn khu vực, bất kể mối quan hệ của chính phủ họ với Washington. Sự tham gia sâu hơn vào việc giúp tài trợ cho việc thích ứng và khả năng phục hồi khí hậu ở các quốc gia cực kỳ dễ bị tổn thương cũng có thể mang lại những tác động tích cực.
Ngoài ra, các nhà hoạch định chính sách Mỹ cũng cần từ bỏ với sự tập trung cứng nhắc vào cuộc cạnh tranh khu vực với Nga, sự ảnh hưởng của Nga đối với các chính quyền quân sự ít hơn nhiều so với những lời lẽ cường điệu đến từ Washington. Thay vào đó, các hoạt động của Nga bị hạn chế bởi ưu tiên chính trị của các chính phủ khu vực và Moscow không có sức ép nào lớn lên chính trị của họ. Washington nên nhận ra rằng các đối tác châu Phi của họ muốn được đối xử bình đẳng và tôn trọng, chứ không muốn làm quân cờ trong cuộc cạnh tranh địa chính trị. Cách đối xử này, như đoàn đại biểu Bộ Ngoại giao Mỹ đã bày tỏ tại Niamey, chỉ khiến cho sự ganh tị và thiếu niềm tin tăng lên./.
Biên dịch: Nguyên Nguyễn
Nathaniel Powell là một nhà phân tích về Tây Phi tại Oxford Analytica và là nghiên cứu viên danh dự tại Trung tâm Chiến tranh và Ngoại giao của Đại học Lancaster. Ông là tác giả của cuốn sách “France’s Wars in Chad: Military Intervention and Decolonization in Africa” (Các cuộc chiến của Pháp tại Chad: Can thiệp quân sự và giải phóng thuộc địa tại Châu Phi).
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của Nghiên cứu Chiến lược. Mọi trao đổi học thuật và các vấn đề khác, quý độc giả có thể liên hệ với ban biên tập qua địa chỉ mail: [email protected]