Vào ngày 6 tháng 6 năm 2023, chính phủ Nhật Bản đã trình bày trước công chúng bản dự thảo cập nhật về “Chủ nghĩa Tư bản mới” – một kế hoạch quy mô lớn nhằm phát triển nền kinh tế đất nước do Thủ tướng Fumio Kishida đề xuất. Các phương tiện truyền thông Nhật Bản gọi “Chủ nghĩa Tư bản mới” là nền tảng, yếu tố chính để xây dựng chính sách của nội các hiện tại. Trong bài phát biểu đánh dấu cuộc họp làm việc lần thứ 19 của Ủy ban thực hiện dự án này, ông Kishida đã vạch rõ hơn bốn định hướng chiến lược quan trọng cho tương lai của nền kinh tế Nhật Bản trước những yếu tố tiêu cực chính – khắc phục hậu quả của đại dịch Covid và cuộc khủng hoảng ở Ukraine.
Định hướng mới cho sự phát triển của nền kinh tế Nhật Bản
Thứ nhất, đây là một cuộc cải cách toàn diện của thị trường lao động: đầu tư vào phát triển nguồn nhân lực, mức thu nhập tăng chưa từng có trong ba mươi năm qua. Để mở khóa tiềm năng của nhân viên có trình độ, nó được lên kế hoạch để kích thích đào tạo lại nhân viên chuyên nghiệp (đào tạo lại kỹ năng). Để tăng lương, Chính phủ Nhật Bản dự kiến thực hiện một loạt biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhằm tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển, từ đó tạo điều kiện tăng lương cho nhân viên.
Thứ hai, nó được lên kế hoạch để thu hút các khoản đầu tư quy mô lớn, bao gồm cả đầu tư nước ngoài, bằng cách tạo ra hình ảnh Nhật Bản là một đối tác có thể đem lại lợi nhuận, phát triển ổn định trong bất ổn địa chính trị toàn cầu hiện nay và là một mắt xích mạnh mẽ trong hệ thống chuỗi cung ứng toàn cầu. Các lĩnh vực ưu tiên nghiên cứu và phát triển (R&D) cũng đã được công bố: sản xuất chất bán dẫn, pin thế hệ mới, tạo ra các trung tâm lưu trữ, xử lý dữ liệu, phát triển công nghệ sinh học và hệ thống trí tuệ nhân tạo.
Thứ ba, một trọng tâm khác là kích thích sự phát triển dựa trên các công ty mới thành lập và tạo môi trường thuận lợi để họ dễ dàng gia nhập thị trường.
Thứ tư, chính phủ tiếp tục tập trung giải quyết các vấn đề xã hội cấp bách, chủ yếu thông qua thu hút đầu tư, sử dụng vốn hiệu quả và thực hiện khái niệm nhà nước về tạo ra các cụm đô thị kỹ thuật số để hồi sinh các khu vực.
Nếu chúng ta so sánh bài trình bày về “Chủ nghĩa Tư bản mới” vào tháng 6 năm 2023 với bài phát biểu tương tự của ông Kishida vào tháng 11 năm 2021, thì có thể thấy rằng những luận điểm chính của ông hầu như không thay đổi: hướng tới số hóa, tạo ra một “chu kỳ tăng trưởng và phân phối hợp lý”, một loạt các biện pháp hỗ trợ xã hội cho tất cả các bộ phận dân số. Tuy nhiên, giờ đây, Thủ tướng Nhật Bản đã nhấn mạnh hơn vào hai khía cạnh trong chương trình của mình trong số nhiều khía cạnh khác. Đầu tiên là cải cách toàn diện thị trường lao động, trong đó lý tưởng nhất là nhân viên của các công ty đang trong quá trình liên tục nâng cao trình độ hoặc đạt được các kỹ năng bổ sung để đáp ứng nhu cầu của thị trường và các doanh nghiệp phân bổ kinh phí đáng kể cho việc lập kế hoạch tăng lương liên tục cho nhân viên. Tiếp đó là tạo ra các công ty khởi nghiệp năng động trong các lĩnh vực đầy triển vọng của nền kinh tế sẽ vực dậy thị trường, thu hút đầu tư và góp phần phát triển các vùng lãnh thổ ngoại vi. Đồng thời, đặc biệt chú ý đến việc kích thích sử dụng các khả năng của trí tuệ nhân tạo, đặc biệt là bot trò chuyện ChatGPT, trong các lĩnh vực tài chính, giáo dục, công nghiệp, y tế và các lĩnh vực khác.
Triển vọng thực hiện “Chủ nghĩa Tư bản mới”
Bất chấp sự lạc quan của chiến lược đã công bố, có vẻ như việc triển khai thực tế có thể gặp phải một số vấn đề và triển vọng không mấy sáng sủa. Câu hỏi chính vẫn là các nguồn tài trợ cho chương trình. Người ta đã nói nhiều về việc tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự phát triển của nền kinh tế, về một nguồn thu đáng kể, thông qua việc thực hiện một số chương trình trung hòa cacbon, phát triển “năng lượng sạch” theo cơ chế đối tác công tư, nhưng đây chỉ là những triển vọng và không thực sự phù hợp với cơ sở tài chính hiện tại.
Để các kế hoạch đầy tham vọng của F. Kishida thành hiện thực, Chính phủ Nhật Bản sẽ phải nghiêm túc thay đổi tình hình hiện tại. Vì vậy, nếu nó được lên kế hoạch, như đã nêu, để tăng sức hấp dẫn của đất nước như một thiên đường đầu tư và môi trường lý tưởng cho công việc của các chuyên gia có trình độ cao, thì không chỉ dừng ở việc đưa mức lương đạt giá trị trung bình đối với các nước G7, mà còn phải tăng số lượng lao động nước ngoài có trình độ cao. Hiện tại, tỷ lệ lao động nước ngoài ở Nhật Bản chỉ là 1% (con số ở Anh là 23%, ở Hoa Kỳ là 16%). Tuy nhiên, mục tiêu này không thể đạt được nếu không có một cuộc cải cách toàn diện về vấn đề cư trú, chẳng hạn như các doanh nhân nước ngoài có kế hoạch thành lập một công ty khởi nghiệp mới trong nước có thể xin thị thực kinh doanh trong hơn một năm.
Ngoài ra, Nhật Bản, để thực hiện các nhiệm vụ của “Chủ nghĩa Tư bản mới”, cần giải quyết vấn đề thu hút lao động có tay nghề thấp. Các biện pháp trước đây để thu hút lao động từ các nước đang phát triển, chẳng hạn như chương trình đào tạo thực tập sinh kỹ thuật tồn tại từ năm 1993, hiện nay không không còn hiệu quả: chủ doanh nghiệp bóc lột những người lao động đó bằng cách thao túng tình trạng thị thực của họ, chính người lao động, theo các điều khoản của thị thực, không thể dễ dàng thay đổi nơi làm việc của họ ngay cả trong một lĩnh vực việc làm. Tất cả điều này dẫn đến gia tăng tỷ lệ mất việc làm và số lượng người cư trú bất hợp pháp.
Mặc dù thực tế là trong chiến lược “Chủ nghĩa Tư bản mới” F. Kishida rất coi trọng vai trò của phụ nữ trong nền kinh tế, nhưng đây cũng có thể trở thành một điểm yếu trong chương trình của ông. Một mặt, ông kêu gọi phụ nữ góp phần giải quyết vấn đề nhân khẩu học, trở thành nhà lãnh đạo đầu tiên của Nhật Bản trong ba mươi năm qua, người đã dành ưu tiên cao nhất cho vấn đề dân số của Nhật Bản và công bố một số biện pháp hỗ trợ xã hội (tăng cường trợ cấp trẻ em, tăng thời gian thanh toán trợ cấp, tăng học bổng) nhằm vào đối tượng chính – tích cực học tập, làm việc và xây dựng gia đình của những người trẻ tuổi từ 20-30 tuổi. Đó là, tại thời điểm này, trọng tâm là bảo tồn các vai trò truyền thống trong xã hội Nhật Bản, nơi mà mức thu nhập chung của gia đình ở mức cao cho phép một người phụ nữ sinh con và nuôi con mà không phải đi làm (ở đây đáng chú ý là phản ứng tiêu cực của xã hội Nhật Bản do tuyên bố của F. Kishida rằng phụ nữ có thể dành thời gian nghỉ thai sản và chăm sóc con cái để cải thiện kỹ năng làm việc của họ – chính xác là “học lại kỹ năng”).
Mặt khác, Thủ tướng thừa nhận tình trạng tụt hậu của đất nước so với thế giới về bình đẳng giới trong thị trường lao động và cho rằng để thực hiện mục tiêu của “Chủ nghĩa Tư bản mới”, cần phải tăng tỷ lệ phụ nữ ở các vị trí lãnh đạo lên ít nhất 30% vào năm 2030. Tính đến năm 2021, theo một nghiên cứu của Tokyo Shoko Research Ltd., tỷ lệ phụ nữ trong đội ngũ quản lý tại 3.795 công ty chỉ là 9%. Các biện pháp được liệt kê để đạt được mục tiêu này có vẻ hơi giả tạo: khuyến khích các công ty đề bạt phụ nữ giữ vai trò lãnh đạo, tăng mức thu nhập của phụ nữ bằng cách nâng cao kỹ năng của họ trong các lĩnh vực đổi mới, chẳng hạn như công nghệ kỹ thuật số, v.v. Hiện tại, theo OECD, lương của phụ nữ ở Nhật Bản thấp hơn 22% so với nam giới. Tình trạng này đã diễn ra trong một thời gian dài, do đó, vấn đề chính trong việc thực hiện ý định này của F. Kishida vẫn là thái độ cơ bản về vai trò giới trong xã hội Nhật Bản, vốn không thể thay đổi đột ngột theo chỉ đạo của chính phủ.
Nhật Bản và lưỡng cực mới
Việc thực hiện tất cả các ưu tiên phát triển nền kinh tế Nhật Bản do F. Kishida tuyên bố đòi hỏi nguồn tài chính đáng kể, đào tạo lại quy mô lớn và sự tham gia của nguồn nhân lực. Thực tiễn cho thấy rằng chỉ tuyên bố lớn tiếng về ý định phân bổ thêm kinh phí cho vấn đề quan trọng nhất đối với sự phát triển của đất nước là chưa đủ. Do đó, Chính phủ Nhật Bản đã công bố vào tháng 12 năm 2022 kế hoạch tăng thuế nhằm mục tiêu tăng ngân sách quốc phòng của đất nước vào năm 2024. Nhưng vào đầu tháng 6 năm 2023, một dự luật đã được đệ trình lên Đảng Dân chủ Tự do (LDP) cầm quyền của Nhật Bản để xem xét, theo đó một quyết định như vậy có thể được đưa ra sớm nhất vào năm 2025 và cần đảm bảo sự linh hoạt khi thực hiện. Điều này cho thấy không chỉ khó phân bổ vốn từ các quỹ hiện có mà còn khó đảm bảo nguồn thu trong tương lai do các quyết định của chính phủ, tất nhiên không nên dẫn đến sự sụp đổ của toàn bộ hệ thống do mất cân đối các chính sách ưu đãi.
Nhật Bản hiện đang ở ngã tư đường. Một mặt, F. Kishida, với tư cách là người lãnh đạo đất nước, phải đảm bảo phúc lợi kinh tế cho người dân, thông qua nỗ lực triển khai chiến lược của mình, tiếp tục chính sách kinh tế của Junichiro Koizumi, một trong những chính sách phổ biến nhất của vị thủ tướng Nhật Bản này theo đuổi giai đoạn 2001 – 2006. Mặt khác, nội các của F. Kishida, không giống như các nội các trước đây của người tiền nhiệm S. Abe, F. Kishida, với tư cách là một chính trị gia, buộc phải thúc đẩy các cải cách đã công bố trong điều kiện khủng hoảng địa chính trị chưa từng có, và việc triển khai hiệu quả các quyết định chính trị trong nước phụ thuộc vào các quyết sách đối ngoại. Vấn đề càng phức tạp hơn, Chính phủ Nhật Bản gần đây đã tích cực hơn bao giờ hết trong việc thúc đẩy câu chuyện về “Môi trường thù địch bên ngoài”, trong đó Nhật Bản bị bao vây bởi các quốc gia gây ra mối đe dọa đối với an ninh của nước này (Sách trắng Quốc phòng Nhật Bản năm 2022 liệt kê các quốc gia này là Nga, Trung Quốc và Bắc Triều Tiên). Do đó, khó xác định được đâu là vấn đề quyết định đối với những chuyển đổi mà Chính phủ Nhật Bản sẽ coi là ưu tiên tài trợ: chính trị nội bộ, hướng tới sự thịnh vượng của người dân, hay chính sách đối ngoại (ngụ ý tăng chi tiêu quốc phòng và tuyên bố sự đoàn kết của Nhật Bản đối với thế giới, đối với các nước phương Tây và trên hết là với Hoa Kỳ)?
Biên dịch: Bùi Toàn
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, không nhất thiết trùng với quan điểm của Nghiên cứu Chiến lược.
Mọi phản hồi học thuật cũng như các vấn đề khác quý độc giả có thể trao đổi với Ban Biên tập Nghiên cứu Chiến lược qua địa chỉ mail: [email protected]
Tác giả: Elena Goryacheva là Tiến sĩ Lịch sử, Nghiên cứu viên cao cấp tại Trung tâm Nghiên cứu Toàn cầu và Khu vực (ЦГРИ), Viện Lịch sử, Khảo cổ học và Dân tộc học (ИИАЭ) của các dân tộc Viễn Đông, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Nga.