Quá trình "mở rộng kép" của EU và NATO đã định hình trật tự an ninh châu Âu thời hậu Chiến tranh Lạnh. Cả EU và NATO đều cố gắng đưa Nga vào một khuôn khổ thể chế cụ thể, nhưng cuối cùng đều thất bại. Xung đột Ukraine nổ ra vào năm 2022 là hồi chuông báo hiệu về sự tan rã của trật tự an ninh châu Âu thời hậu Chiến tranh Lạnh. Kết quả của nó nhiều khả năng sẽ định hình lại cấu trúc an ninh châu Âu. Sau cuộc xung đột, châu Âu sẽ kêu gọi một trật tự an ninh mới, đòi hỏi tư duy chiến lược mới vượt ra ngoài các liên minh và cân bằng quyền lực. Đồng thời, họ sẽ phải suy nghĩ lại về nhiệm vụ của các cơ chế an ninh châu Âu hiện có và tạo ra các cơ chế an ninh mới cho không gian của Liên Xô cũ. Bất kể kết quả của cuộc xung đột như thế nào, Nga sẽ vẫn là một nước láng giềng mà châu Âu không thể lựa chọn và không thể trốn tránh. Không có sự tham gia của Nga sẽ không thể có một cấu trúc an ninh châu Âu ổn định, và nếu Nga hội nhập hoàn toàn vào cấu trúc an ninh mới thì việc làm thế nào để cân bằng lợi ích của EU, NATO với lợi ích của Nga sẽ là một vấn đề lớn.
Cuộc khủng hoảng Ukraine bắt đầu leo thang vào ngày 24 tháng 2 năm 2022 đã kéo dài hơn 1 năm, đây là cuộc chiến tồi tệ nhất mà châu Âu phải trải qua sau khi Thế chiến II kết thúc. Cuộc khủng hoảng này báo hiệu sự tan rã của trật tự an ninh châu Âu thời hậu Chiến tranh Lạnh, và kết quả của nó nhiều khả năng sẽ định hình lại cấu trúc an ninh châu Âu.
Trật tự an ninh châu Âu trong Chiến tranh Lạnh
Châu Âu là nơi diễn ra của hai cuộc chiến tranh thế giới. Trước thời điểm Thế chiến thứ nhất kết thúc, Tổng thống Wilson của Hoa Kỳ đã đề xuất “Kế hoạch hòa bình 14 điểm”, đóng vai trò quan trọng trong việc định hình trật tự châu Âu thời hậu chiến. Sau chiến tranh, quân đội Hoa Kỳ rút khỏi châu Âu. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ tham gia với tư cách là đồng minh chống phát xít, cùng các nước châu Âu đánh bại phát xít Đức. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, tình hữu nghị giữa Mỹ, Anh và Liên Xô đi đến hồi kết, châu Âu ngày càng bị chia rẽ. Vào ngày 5 tháng 3 năm 1946, Winston Churchill, người vừa thôi giữ chức Thủ tướng Anh, đã đọc “Bài phát biểu về Bức màn sắt” nổi tiếng tại Fulton, Hoa Kỳ, tuyên bố rằng “từ Stettin ở Baltic đến Trieste ở Adriatic, bức màn sắt đã hạ xuống Lục địa Châu Âu”. Churchill kêu gọi Anh và Mỹ lập liên minh chống Liên Xô. Từ “Học thuyết Truman” đến “Kế hoạch Marshall”, chính sách ngăn chặn của Hoa Kỳ đối với Liên Xô đã hình thành.
Ngày 4 tháng 4 năm 1949, ngoại trưởng các nước Hoa Kỳ, Anh, Bỉ, Canada, Đan Mạch, Pháp, Iceland, Ý, Luxembourg, Hà Lan, Na Uy, Bồ Đào Nha và các nước khác đã ký Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương tại Washington, thành lập liên minh quân sự NATO, an ninh của chính họ gắn liền với an ninh của các quốc gia trên lục địa châu Âu, họ đã trở thành “cổ đông” không thể thiếu đối với an ninh lục địa này. Năm 1949, Tây Đức và Đông Đức lần lượt được thành lập, nước Đức bị chia cắt. Khi Tây Đức gia nhập NATO vào ngày 5 tháng 5 năm 1955, Bộ trưởng Ngoại giao Na Uy khi đó là Halvard Lange đã gọi đó là “một bước ngoặt quyết định trong lịch sử của châu Âu”. Lo sợ rằng Tây Đức đang tái vũ trang, Liên Xô đã thành lập Hiệp ước Warszawa vào ngày 14 tháng 5 với bảy quốc gia Đông Âu. Kết quả là, châu Âu đã hình thành một cấu trúc an ninh trong đó NATO do Mỹ lãnh đạo và Hiệp ước Warszawa do Liên Xô lãnh đạo đối đầu với nhau. Việc xây dựng Bức tường Berlin vào năm 1961 đã trở thành một cột mốc quan trọng trong việc phân chia châu Âu.
Cuộc đối đầu giữa Mỹ và Liên Xô là cuộc đối đầu toàn diện trên các lĩnh vực tư tưởng, chế độ xã hội, công nghệ, kinh tế, quân sự… Sự gia tăng đối đầu giữa hai siêu cường hạt nhân khiến thế giới đứng trước nguy cơ chiến tranh hạt nhân. Châu Âu là trung tâm của vòng xoáy đối đầu giữa hai cực, và bóng đen chiến tranh bao trùm lục địa già. Sự phát triển của công nghệ tên lửa đạn đạo đã đẩy cuộc đối đầu giữa Mỹ và Liên Xô lên một tầm cao mới. Sự cân bằng chiến lược được tạo ra trong thời đại hạt nhân bởi “sự hủy diệt lẫn nhau được đảm bảo” đã khiến hợp tác giữa Mỹ và Liên Xô bị hạn chế. Sau cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962, những lo ngại về chiến tranh hạt nhân đã khiến các nhà lãnh đạo của Hoa Kỳ và Liên Xô ký hiệp ước kiểm soát vũ khí hạt nhân đầu tiên. Để giảm nguy cơ chiến tranh hạt nhân, Nhà Trắng và Điện Kremlin đã mở đường dây nóng để điện đàm trực tiếp giữa hai nguyên thủ. Nhờ “mối quan hệ hòa thuận” giữa Tổng thống Mỹ Nixon và nhà lãnh đạo Liên Xô Brezhnev, Chiến tranh Lạnh Mỹ-Xô bước vào giai đoạn hòa dịu vào cuối những năm 1960. Các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ và Liên Xô đã tổ chức các hội nghị thượng đỉnh thường xuyên và ký kết nhiều hiệp ước quốc tế, chẳng hạn như Hiệp ước cấm thử hạt nhân một phần (1963), Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân (1968) và Hiệp ước chống tên lửa đạn đạo (1972).
Trong bối cảnh quan hệ giữa Hoa Kỳ và Liên Xô giảm nhiệt, Brandt trở thành Thủ tướng Cộng hòa Liên bang Đức vào năm 1969, và ông coi ý tưởng “thay đổi thông qua hòa giải” làm kim chỉ nam và “chính sách phương Đông” của Tây Đức đã được đưa ra. Xu hướng hòa hoãn đông tây bước vào một giai đoạn mới. Tháng 11 năm 1969, Tây Đức và Liên Xô ký Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân. Tháng 8 năm 1970, Tây Đức và Liên Xô ký kết “Hiệp ước Mátxcơva” quy định biên giới là “bất khả xâm phạm”, liên quan đến giới tuyến Oder-Neisse ở Ba Lan và biên giới giữa Đông và Tây Đức. Tháng 12 năm 1970, Tây Đức và Ba Lan ký “Hiệp ước Warszawa”, công nhận biên giới sông Oder- Neisse và tuyên bố rằng “không có yêu sách lãnh thổ chung”. Vào ngày 7 tháng 12 năm 1970, trong chuyến thăm của Brandt tới Ba Lan, hình ảnh “quỳ gối” trước Đài tưởng niệm các anh hùng Ghetto đã trở thành biểu tượng của sự hòa giải Đức-Ba Lan. Tháng 12 năm 1972, hai nước Đức vẫn luôn tiên phong trong cuộc đối đầu lưỡng cực đã ký Hiệp ước trên cơ sở quan hệ giữa Cộng hòa Liên bang Đức và Cộng hòa Dân chủ Đức để bình thường hóa quan hệ. Sau đó, hai nước thành lập văn phòng đại diện thường trực ở nhau, và đều gia nhập Liên hợp quốc. Các hiệp ước này đã nâng cao sự hòa hoãn Đông – Tây dựa trên sự bất khả xâm phạm của các biên giới hiện có cùng việc từ bỏ việc sử dụng vũ lực.
Tháng 7 năm 1973, 33 nước Châu Âu và Hoa Kỳ đã tổ chức “Hội nghị Hợp tác và An ninh Châu Âu” tại Helsinki, thảo luận các vấn đề liên quan đến sự phân chia nước Đức, nhân quyền ở Đông Âu, sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ ở Châu Âu và tương lai của các nước Baltic. Là một diễn đàn đối thoại thường trực, cuộc họp này đã trở thành một phần quan trọng trong cấu trúc an ninh hai cấp của châu Âu. Ngày 1 tháng 8 năm 1975, “Hội nghị về An ninh và Hợp tác ở châu Âu” đã thông qua “Văn kiện cuối cùng Helsinki” (còn gọi là “Hiệp ước Helsinki”). Đại diện của 35 quốc gia bao gồm các quốc gia thành viên Hiệp ước Warszawa, các quốc gia thành viên NATO và các quốc gia không liên kết đã tham dự cuộc họp. “Tuyên bố về các nguyên tắc điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia tham gia” đưa ra mười điểm cốt lõi, bao gồm:
- Bình đẳng chủ quyền, tôn trọng các quyền chủ quyền vốn có.
- Không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực.
- Bất khả xâm phạm biên giới.
- Toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia.
- Giải quyết tranh chấp một cách hòa bình.
- Không can thiệp vào công việc nội bộ.
- Tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do cơ bản, bao gồm tự do tư tưởng, lương tâm, tôn giáo hoặc tín ngưỡng.
- Quyền bình đẳng, quyền tự quyết của các dân tộc.
- Hợp tác giữa các quốc gia.
- Thực hiện thiện chí các nghĩa vụ theo luật pháp quốc tế.
Những nguyên tắc này tạo thành nền tảng của trật tự an ninh châu Âu ngày nay.
Trong cấu trúc lưỡng cực Hoa Kỳ và Liên Xô đối đầu nhau, Cộng đồng châu Âu cạnh tranh với Hội đồng Tương trợ Kinh tế, sự đối nghịch giữa NATO và Khối Warszawa. Bất chấp sự đối đầu quân sự giữa Hiệp ước Warszawa và NATO ở châu Âu trong Chiến tranh Lạnh, sự cân bằng quyền lực giữa Hoa Kỳ và Liên Xô và sự cân bằng chiến lược về sức mạnh hạt nhân cho phép hai bên tránh trực tiếp xâm phạm khu vực lãnh thổ ảnh hưởng của nhau, và châu Âu duy trì hòa bình trong 45 năm. “Hiệp định Helsinki” đạt được năm 1975 đã đặt nền móng cho sự hợp tác giữa hai phe Đông và Tây.
Trật tự an ninh châu Âu thời hậu Chiến tranh Lạnh
Tháng 3 năm 1985, sau khi Mikhail Gorbachev trở thành lãnh đạo tối cao của Liên bang Xô Viết, chính sách đối ngoại của Liên Xô đối với “các nước anh em” đã có những thay đổi lớn. Liên Xô từ bỏ “Học thuyết chủ quyền hạn chế” của Brezhnev và không còn can thiệp vào những thay đổi ở các nước Đông Âu. “Hiệu ứng domino” xảy ra với tốc độ chóng mặt giữa các nước Đông Âu năm 1989 đã làm lung lay trật tự an ninh châu Âu trong Chiến tranh Lạnh, trong đó sự sụp đổ của Bức tường Berlin đã báo hiệu sự kết thúc của sự chia cắt châu Âu. Gorbachev đưa ra cái gọi là “ngôi nhà chung châu Âu” tại Hội đồng châu Âu. Lý thuyết này cung cấp một không gian mới cho trí tưởng tượng chính trị về một châu Âu đang thay đổi. Ngày 3 tháng 12 năm 1989, Tổng thống Hoa Kỳ Bush Sr. gặp Mikhail Gorbachev tại Malta và tuyên bố “Chiến tranh Lạnh chấm dứt”. Ngày 3 tháng 10 năm 1990, nước Đức thống nhất. Tháng 6 năm 1991, Hội đồng Tương trợ Kinh tế do Liên Xô đứng đầu bị giải tán. Vào ngày 1 tháng 7, Hiệp ước Warszawa bị giải thể. Ngày 31 tháng 12 năm 1991, Liên Xô với tư cách là một siêu cường đã tan rã, 15 quốc gia mới độc lập xuất hiện trong không gian của Liên Xô cũ. Nga, quốc gia kế thừa địa vị của Liên Xô trong luật pháp quốc tế, là quốc gia lớn nhất trong số đó.
Tháng 11 năm 1990, “Hội nghị về an ninh và hợp tác ở châu Âu” đã thông qua “Hiến chương Paris cho một châu Âu mới”, tuyên bố kết thúc “kỷ nguyên đối đầu và chia rẽ” ở châu Âu, đồng thời bắt đầu một “kỷ nguyên dân chủ mới, hòa bình và thống nhất”. “Hiến chương” nhấn mạnh rằng: “an ninh là không thể chia cắt, và an ninh của mỗi quốc gia tham gia không thể tách rời khỏi an ninh chung của tất cả các quốc gia còn lại”. Việc thể chế hóa trật tự an ninh châu Âu đã được củng cố vào năm 1995 khi Hội nghị về An ninh và Hợp tác ở châu Âu được chuyển đổi từ một diễn đàn đa phương thành một tổ chức hợp tác an ninh. Các hội nghị thượng đỉnh của OSCE tại Istanbul năm 1999 và Astana năm 2010 đã tái khẳng định nguyên tắc “an ninh không thể chia cắt” đồng thời nhấn mạnh rằng không quốc gia hoặc nhóm quốc gia nào “có thể coi bất kỳ phần nào của khu vực OSCE là phạm vi ảnh hưởng của mình”. Năm 1999, OSCE đã thông qua “Hiến chương An ninh Châu Âu”, trong đó liệt kê những rủi ro và thách thức mới mà an ninh của lục địa già phải đối mặt trong môi trường chiến lược sau Chiến tranh Lạnh, tái khẳng định một số nguyên tắc cơ bản và quy định nhằm tăng cường năng lực hoạt động của OSCE trong việc ngăn ngừa xung đột và quản lý khủng hoảng, phục hồi sau xung đột, v.v.
Cho đến nay, OSCE có 57 quốc gia thành viên và là diễn đàn an ninh khu vực lớn nhất thế giới. OSCE được coi là một trong những trụ cột của trật tự an ninh châu Âu và các quyết định của tổ chức này dựa trên sự đồng thuận. OSCE không tránh khỏi các cáo buộc, Nga thường chỉ trích OSCE là “công cụ để các nước phương Tây thúc đẩy lợi ích của họ”. Trong bài phát biểu tại Hội nghị An ninh Munich năm 2007, Tổng thống Putin cáo buộc các nước phương Tây biến OSCE thành một “công cụ tầm thường được thiết kế để thúc đẩy lợi ích chính sách đối ngoại của một quốc gia hoặc một nhóm quốc gia”.
Mặc dù châu Âu đang tiến tới thống nhất nhưng EU vẫn chưa nổi lên như một chủ thể an ninh hiệu quả. Vào tháng 11 năm 1993, “Hiệp ước về Liên minh châu Âu” (Hiệp ước Maastricht) có hiệu lực và Cộng đồng châu Âu được chuyển đổi thành Liên minh châu Âu. EU đã trải qua 4 lần mở rộng vào các năm 1995, 2004, 2007 và 2013. Năm 1995, Áo, Thụy Điển và Phần Lan gia nhập EU. Năm 2004, mười quốc gia được kết nạp bao gồm Malta, Síp, Ba Lan, Hungary, Cộng hòa Séc, Slovakia, Slovenia, Estonia, Latvia và Litva, nâng số thành viên chính thức của EU lên 25. Romania và Bulgaria tham gia vào năm 2007. Croatia tham gia vào năm 2013. Chiến tranh Lạnh kết thúc không làm giảm đi ý nghĩa quyết định của sức mạnh quân sự trong các vấn đề quốc tế. Trong cuộc khủng hoảng Balkan vào những năm 1990, châu Âu bị choáng ngợp và không thể đối phó một cách độc lập với cuộc khủng hoảng quốc tế đang diễn ra trên lục địa. Cho dù đó là cuộc khủng hoảng Bosnia-Herzegovina hay việc giải quyết cuộc khủng hoảng Kosovo, thì cuối cùng nó vẫn phụ thuộc vào sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ. “Chính sách an ninh và quốc phòng chung của EU” ra đời năm 1999 chủ yếu tập trung vào quản lý khủng hoảng, vẫn chưa thể tự giải quyết các cuộc khủng hoảng an ninh ở lục địa châu Âu.
Sau khi Hiệp ước Warszawa bị giải thể, NATO do Hoa Kỳ lãnh đạo tiếp tục mở rộng. Trước khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, NATO có 16 quốc gia thành viên. Sau 5 lần mở rộng đã có 14 nước Trung và Đông Âu tham gia (và hiện đã kết nạp thêm 1 thành viên Bắc Âu). Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, các chính trị gia ở các nước Trung và Đông Âu đã kêu gọi NATO mở rộng về phía Đông, đồng thời bắt đầu các cuộc thảo luận liên quan. Havel (tổng thống cuối cùng của Liên bang Tiệp Khắc từ 1990 đến 1992 và tổng thống đầu tiên của Cộng hòa Séc từ 1993 đến 2003) cho rằng NATO đã chuyển đổi là “người bảo đảm chính cho an ninh châu Âu.” Chính trị gia các nước Trung và Đông Âu luôn nhấn mạnh “từ Munich đến Yalta” cùng “sự đối xử bất công” mà các nước này phải gánh chịu. Rosati, cựu thành viên Nghị viện châu Âu, từng là ngoại trưởng Ba Lan, cho rằng việc NATO mở rộng về phía Đông là “hành động bù đắp cho lịch sử”. Nó đã chấm dứt sự chia cắt châu Âu, đặt nền móng cho việc thiết lập “một trật tự chính trị mới dựa trên hợp tác, các giá trị chung và tôn trọng luật pháp” ở châu Âu.
Quá trình “mở rộng kép” của EU và NATO đã định hình trật tự an ninh châu Âu thời hậu Chiến tranh Lạnh. Cả EU và NATO đều cố gắng đưa Nga vào một khuôn khổ thể chế cụ thể, nhưng cuối cùng đều thất bại.
Từ “Hiệp định Đối tác và Hợp tác” năm 1994 đến “Bốn không gian chung” năm 2005 (không gian kinh tế chung; không gian chung về tự do, an ninh và công lý; không gian chung về an ninh đối ngoại; không gian chung về nghiên cứu và giáo dục). Rồi đến “quan hệ đối tác hiện đại” năm 2010, quan hệ EU-Nga không phải là không có tiến triển. Kể từ năm 2012, Nga quyết định thành lập Liên minh Á-Âu và mối quan tâm của nước này trong việc xây dựng “khu thương mại tự do từ Lisbon đến Vladivostok” đã giảm đi đáng kể. Nga ngày càng cảnh giác hơn với mối quan hệ giữa EU và các quốc gia vệ tinh thuộc Liên Xô cũ. Năm 2013, họ đã chủ động ngăn chặn Ukraine, Armenia và Gruzia ký hiệp định thương mại tự do với EU. Sau cuộc khủng hoảng Ukraine năm 2014, EU đã áp đặt các lệnh trừng phạt đối với Nga, dẫn đến hợp tác EU – Nga bị đình trệ.
Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, NATO từng coi Nga là “đối tác”. Năm 1994, Nga tham gia chương trình Đối tác vì Hòa bình của NATO. Năm 1997, NATO và Nga đã ký “Văn bản cơ bản về quan hệ NATO-Nga”, dẫn đến việc thành lập Hội đồng thường trực NATO-Nga. Năm 2002, Hội đồng hỗn hợp thường trực NATO-Nga được thay thế bằng Hội đồng NATO-Nga. Kể từ sau “Cách mạng Cam” ở Ukraine năm 2004-2005 và Chiến tranh Nga-Gruzia năm 2008, mối quan hệ giữa NATO và Nga ngày càng xấu đi. Năm 2014, NATO đình chỉ hợp tác với Nga liên quan đến việc Nga sáp nhập Crimea.
Trật tự an ninh châu Âu thời hậu Chiến tranh Lạnh là một “trật tự chuyển tiếp” và việc định hình trật tự này đạt được thông qua việc mở rộng NATO và EU, vốn là sản phẩm của trật tự lưỡng cực. Sự bành trướng quyền lực của phương Tây và sự thu hẹp quyền lực của Nga đã gây ra sự bất đối xứng và mất cân bằng quyền lực ở châu Âu. Theo học giả người Nga Lukyanov, phương Tây không thể công nhận Nga là “người tạo ra châu Âu mới một cách bình đẳng”. Nga cũng đã tuyên bố không đóng một vai trò bất kỳ mang tính “cấp dưới phụ thuộc” nào. Nga cho rằng phương Tây đã vi phạm cam kết và mở rộng NATO đến sát biên giới Nga, gây tổn hại đến lợi ích an ninh của Nga, đồng thời cho rằng trật tự an ninh châu Âu sau Chiến tranh Lạnh đã không mang lại cho Nga một vị thế phù hợp. Sau khi nhậm chức tổng thống Nga năm 2008, Medvedev đề xuất đàm phán một “Hiệp ước An ninh toàn châu Âu” mới, chủ trương vượt qua “trật tự an ninh châu Âu-Đại Tây Dương” kiểu cũ và hình thành một “trật tự mới bao trùm từ Vancouver đến Vladivostok”. Năm 2009, Nga công bố dự thảo “Hiệp ước An ninh châu Âu”.
Phương Tây và Nga có cách hiểu khác nhau về “An ninh châu Âu”, phương Tây đổ lỗi cho việc Nga “vi phạm luật pháp quốc tế” đối với cuộc khủng hoảng Ukraine, trong khi Nga đổ lỗi cho “cấu trúc an ninh châu Âu không phù hợp” gây ra cuộc khủng hoảng Ukraine. Cựu Ngoại trưởng Nga Ivanov tin rằng: “Cuộc khủng hoảng ở Ukraine cho thấy sự mong manh và không đáng tin cậy của cấu trúc an ninh châu Âu-Đại Tây Dương hiện có. Đáng tiếc là châu Âu không có một thỏa thuận hiệu quả để kiểm soát vũ khí thông thường cũng như các lực lượng vũ trang. Các chương trình hiện đại hóa tổ chức của OSCE vẫn đang trong giai đoạn lập kế hoạch, và ngay cả trong thời hoàng kim, Hội đồng Nga-NATO vẫn hoạt động chủ yếu như một cơ quan kỹ thuật”. Tháng 12 năm 2021, Nga đơn phương tiết lộ nội dung của “Hiệp ước An ninh Nga-Mỹ” và “Hiệp ước An ninh Nga-NATO” do nước này soạn thảo, phản ánh việc Nga bác bỏ trật tự an ninh châu Âu thời hậu Chiến tranh Lạnh.
Trật tự an ninh châu Âu sẽ đối mặt với những khó khăn gì sau khủng hoảng Ukraine?
Cuộc khủng hoảng Ukraine bắt đầu leo thang vào ngày 24 tháng 2 năm 2022, đã giáng một đòn nặng nề đối với trật tự an ninh châu Âu thời hậu Chiến tranh Lạnh. Các nước châu Âu đã tăng chi tiêu quân sự và vào năm 2022, chi tiêu quân sự ở Tây và Trung Âu đã lần đầu tiên vượt mức năm 1989. Chủ tịch luân phiên của OSCE kiêm Ngoại trưởng Ba Lan Zbigniew Rau tin rằng châu Âu đang đối mặt với “sự đổ vỡ cấu trúc an ninh nghiêm trọng nhất kể từ khi thông qua Hiệp ước Helsinki”. Tổng thống Bulgaria Radev nói rằng “cấu trúc an ninh châu Âu đã sụp đổ”. Tổng thống Pháp Emmanuel Macron nhấn mạnh châu Âu phải bắt đầu chuẩn bị cho một “cấu trúc an ninh mới” trên lục địa. Thủ tướng Đức Scholz tin rằng nếu Nga kết thúc chiến tranh, châu Âu nên quay lại “trật tự hòa bình” trước chiến tranh và giải quyết “tất cả các vấn đề an ninh chung” sau chiến tranh.
Cuộc chiến Nga-Ukraine đã kích hoạt NATO, tổ chức mà Tổng thống Pháp Emmanuel Macron nhiều năm trước mô tả là đã “chết não”. Các quốc gia trung lập Phần Lan và Thụy Điển đã nộp đơn xin gia nhập NATO. NATO đã kết nạp Phần Lan vào tháng 4 năm 2023. Biên giới giữa NATO và Nga được kéo dài thêm 1.340 km. Nếu Thụy Điển tham gia, biển Baltic sẽ trở thành “biển nội địa” của NATO. Mối quan hệ giữa NATO và Ukraine đã được tăng cường, Tổng thư ký NATO Jens Stoltenberg, người đã đến thăm Ukraine vào ngày 20 tháng 4, nhấn mạnh rằng “Ukraine có một vị trí xứng đáng trong gia đình châu Âu-Đại Tây Dương, và vị trí thích hợp của nước này là trong NATO”. Việc Ukraine gia nhập NATO sau chiến tranh dường như là một kết luận đã được định trước. NATO sẽ vẫn có một vị trí trong trật tự an ninh châu Âu trong tương lai. Cuộc khủng hoảng Ukraine cũng là một đòn giáng mạnh vào “Tinh thần Helsinki”, sứ mệnh của OSCE có thể được xác định lại hay không và liệu châu Âu có thể hồi sinh “Tinh thần Helsinki” trong môi trường địa chính trị mới hay không là điều không chắc chắn. Cộng đồng chính trị châu Âu non trẻ vẫn là một “bức màn trống”, nó có thể trở thành một phần không thể thiếu của trật tự an ninh châu Âu trong tương lai.
Cuộc khủng hoảng Ukraine đã đẩy trọng tâm địa chính trị của châu Âu về phía Đông. Không gian của Liên Xô cũ sẽ trở thành sân khấu cho sự cạnh tranh khốc liệt giữa phương Tây và Nga. Ukraine, Moldova được đưa vào danh sách ứng cử viên EU vì cuộc khủng hoảng Ukraine. Trong không gian của Liên Xô cũ, cuộc xung đột kéo dài sẽ trở thành tâm điểm quan tâm của tất cả các bên. Hiện tại, cuộc chiến ở Ukraine vẫn đang tiếp diễn và không thể kết thúc nó trong thời gian ngắn. Phía Ukraine nhấn mạnh rằng hòa bình phải “công bằng và bền vững”, phải “dựa trên các nguyên tắc của luật pháp quốc tế và tôn trọng Hiến chương Liên Hợp Quốc”, đồng thời phải “khôi phục toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine trong các đường biên giới năm 1991”. Nga nhấn mạnh rằng hòa bình “phải phù hợp với các điều kiện của họ”.
Hội nghị thượng đỉnh NATO tại Madrid vào tháng 6 năm 2022 đã tuyên bố rằng Nga là “mối đe dọa lớn nhất và trực tiếp nhất đối với hòa bình và ổn định ở khu vực Châu Âu-Đại Tây Dương”. Sau chiến tranh, châu Âu sẽ kêu gọi một trật tự an ninh mới, đòi hỏi tư duy chiến lược mới vượt ra ngoài các liên minh và cân bằng quyền lực, suy nghĩ lại về nhiệm vụ của các cơ chế an ninh châu Âu hiện có, đồng thời tạo ra các cơ chế an ninh mới cho không gian của Liên Xô cũ. Trong cuộc thảo luận về trật tự an ninh châu Âu, quan điểm của “nhóm diều hâu” nhấn mạnh sự cần thiết phải loại Nga ra khỏi cấu trúc an ninh châu Âu. Tuy nhiên, bất kể kết quả của cuộc chiến như thế nào, một nước Nga với kho vũ khí hạt nhân lớn nhất thế giới sẽ vẫn là một nước láng giềng mà châu Âu không thể lựa chọn và không thể trốn tránh. Không có sự tham gia của Nga thì không thể có cấu trúc an ninh châu Âu ổn định, và nếu Nga hội nhập hoàn toàn vào cấu trúc an ninh mới thì làm thế nào để cân bằng lợi ích của EU, NATO với lợi ích của Nga sẽ là bài toán lớn.
Biên dịch: Hoàng Hải
Tác giả: Khổng Thiên Bình (孔田平) là Giáo sư, nhà nghiên cứu tại Viện Châu Âu thuộc Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc, phụ trách Phòng Nghiên cứu Trung và Đông Âu, kiêm Giám đốc điều hành của Hiệp hội Kinh tế Thế giới (Trung Quốc) và tham gia phụ trách nhiều tổ chức nghiên cứu khác ở nước này. Xu hướng nghiên cứu chính của ông tập trung vào các vấn đề ở Trung và Đông Âu.
Mọi phản hồi học thuật cũng như các vấn đề khác quý độc giả có thể trao đổi với Ban Biên tập Nghiên cứu Chiến lược qua địa chỉ mail: [email protected]