Kể từ khi trở lại nắm quyền, Tổng thống Mỹ Donald Trump cùng người hậu thuẫn là tỷ phú công nghệ Elon Musk đã thực hiện hàng loạt biện pháp cứng rắn nhằm tái cấu trúc chính phủ Mỹ, đồng thời khởi động một kỷ nguyên thuế quan chưa từng có, làm rung chuyển nền kinh tế toàn cầu. Chỉ trong hơn ba tháng, Musk đã sa thải hàng loạt nhân sự tại các cơ quan liên bang, thay thế họ bằng những người trung thành, và hủy bỏ nhiều hợp đồng công – kể cả với những dự án đã hoàn tất. Trump đã sa thải các tổng thanh tra và loại bỏ người đứng đầu Văn phòng Đạo đức Chính phủ. Cùng nhau, hai người đàn ông này đã chiếm đoạt các nguồn lực mà Quốc hội đã phân bổ, lạm dụng quyền kiểm soát ngân sách để chuyển hướng tiền về phía mình và xa khỏi những đối thủ mà họ cho là kẻ thù. Chính quyền Trump đã đặt mua thêm nhiều vệ tinh Starlink do Musk sản xuất và đưa các công ty của Musk – trở thành một trong những khách hàng lớn nhất của chính phủ – vào cuộc đua giành hàng tỷ đô la hợp đồng mới. Đồng thời, Trump đã hủy bỏ tài trợ của chính phủ cho các trường đại học và công ty luật không ủng hộ chương trình nghị sự của ông. Ngày 2 tháng 4 năm 2025, trong một sự kiện hoành tráng tại Nhà Trắng, Trump công bố một loạt thuế quan khổng lồ ảnh hưởng đến hầu hết các quốc gia nước ngoài, chấm dứt đột ngột kỷ nguyên thương mại quốc tế ngày càng tự do và rộng mở – một hệ thống dựa trên quy tắc mà chính Mỹ đã giúp tạo ra.
Với hầu hết người Mỹ, kiểu lũng đoạn trắng trợn này sẽ có vẻ xa lạ. Chưa bao giờ trong lịch sử hiện đại của Mỹ, một tổng thống doanh nhân lại hợp tác với người giàu nhất thế giới để chiếm quyền kiểm soát chính phủ liên bang, đồng thời dựng lên những rào cản thương mại nghiêm trọng như vậy. Theo một nghĩa nào đó, thông báo về thuế quan không phải là bất ngờ: ngay từ khi nhậm chức, các doanh nghiệp và nhà phân tích tài chính đã biết Trump sẽ nâng cao rào cản thương mại. Nhưng quy mô và phạm vi của các thuế quan, kết hợp với sự thao túng nội bộ của Trump và Musk, xác nhận những nỗi sợ tồi tệ nhất của họ. Chỉ trong một cú đánh, Washington đã hạn chế nghiêm trọng thương mại quốc tế và làm suy yếu các nguyên tắc quản trị trong nước. Nhưng trên phạm vi toàn cầu, đây là một phần của một mô hình đáng lo ngại, kết hợp giữa lũng đoạn Nhà nước và sự trỗi dậy của chủ nghĩa bảo hộ. Ở các nền dân chủ đang chật vật trên khắp thế giới – Bangladesh, Hungary, Nam Phi, Sri Lanka, Thổ Nhĩ Kỳ, và giờ là Mỹ – các nhóm nhỏ gồm chính trị gia, tầng lớp tinh hoa kinh doanh, và chính trị gia có lợi ích kinh doanh – những gì các nhà khoa học chính trị gọi là “nhà tài phiệt” – đã bóp méo nhà nước để phục vụ lợi ích riêng của họ. Những liên minh bất chính này thay đổi luật lệ, sa thải quan chức, bịt miệng những người chỉ trích, rồi sau đó vơ vét tài nguyên của đất nước. Các chính trị gia chiếm quyền kiểm soát ngân hàng, viết lại các quy định, và nắm quyền điều hành các hợp đồng đấu thầu. Trong khi đó, bạn bè của họ trong khu vực tư nhân cung cấp tiền lại quả, quyên góp, và đưa tin truyền thông có lợi.
Để biện minh cho kỷ nguyên thuế quan mới này, Trump lập luận rằng Mỹ là nạn nhân của các hoạt động thương mại không công bằng. Như với nhiều ý kiến của Trump, có một phần sự sự thật trong lập luận của ông. Trung Quốc chẳng hạn, đã lợi dụng các quy tắc của Tổ chức Thương mại Thế giới để tiếp cận thị trường các nước khác cho hàng xuất khẩu của mình, trong khi hạn chế tiếp cận thị trường nội địa của họ với hàng hóa các nước khác. Bắc Kinh cũng sử dụng các khoản trợ cấp lớn và các biện pháp khác để tăng khả năng cạnh tranh toàn cầu của các công ty Trung Quốc, bao gồm việc buộc các công ty nước ngoài phải chuyển giao công nghệ. Nhưng thay vì sửa chữa các quy tắc mà một số đối tác thương mại của Mỹ đã lợi dụng, Trump đã chọn phá bỏ toàn bộ hệ thống, áp thuế không chỉ lên các đối thủ như Trung Quốc mà cả các đồng minh như Nhật Bản, Hàn Quốc, và Đài Loan. Các mối quan hệ kinh tế lâu dài, cùng có lợi và các liên minh địa chính trị hầu như không được tính đến. Trong khi đó, ở cấp độ nội bộ, Trump và Musk đang tái hiện một kịch bản quen thuộc trên toàn cầu: một quá trình có tên là lũng đoạn Nhà nước, đã xảy ra ở Bangladesh, Hungary, Nam Phi, Sri Lanka, Thổ Nhĩ Kỳ, và nhiều quốc gia khác. Hậu quả kinh tế chính xác của sự kết hợp giữa lũng đoạn nội bộ và bảo hộ thương mại này có thể khó định lượng, và thường phải mất nhiều năm để chúng biểu hiện đầy đủ. Nhưng chúng rất nghiêm trọng và có tác động sâu rộng.
Trong các nền kinh tế bị lũng đoạn, mối quan hệ giữa tài năng và thành công bị cắt đứt. Những lao động lành nghề không có quan hệ chính trị phù hợp rời bỏ đất nước, và các công ty có năng lực phải đóng cửa. Trong khi đó, các công ty được ưu ái – thường là những công ty có mạng lưới quan hệ tốt – phình to mà không cần đổi mới hay cung cấp sản phẩm chất lượng (hoặc đôi khi, thậm chí không tạo ra sản phẩm nào cả). Cơ sở hạ tầng của đất nước xuống cấp. Các ngân hàng cạn tiền vì cấp các khoản vay sai mục đích cho các doanh nghiệp được ưu ái. Kết quả là tăng trưởng kinh tế thấp hơn, ít việc làm hơn, bất bình đẳng gia tăng, và lạm phát cao. Tương tự, thuế quan của Trump, với quy mô bao trùm một loạt sản phẩm và đối tác thương mại rộng lớn, chắc chắn sẽ gây ra những tác động bất lợi cho nền kinh tế Mỹ – với chi phí của sự gián đoạn được người tiêu dùng và doanh nghiệp Mỹ gánh chịu ở hầu hết mọi lĩnh vực. Các ngành công nghiệp với chuỗi cung ứng phức tạp xuyên qua nhiều quốc gia, như sản xuất ô tô, sẽ chịu hậu quả nghiêm trọng nhất. Nhưng bất kỳ doanh nghiệp nào từng hưởng lợi từ chuỗi cung ứng hiệu quả và tiết kiệm chi phí – tức là hầu hết các doanh nghiệp – giờ đây sẽ phải thu hẹp để giảm tiếp xúc với rủi ro chính sách thương mại và địa chính trị. Điều này chắc chắn sẽ làm tăng giá cả cho người tiêu dùng, vì các doanh nghiệp ưu tiên khả năng chống chịu hơn hiệu quả. Ngay cả các sản phẩm nông nghiệp, máy móc thiết bị, và hàng công nghệ cao mà Mỹ xuất khẩu cũng sẽ bị ảnh hưởng bất lợi, nhờ các thuế quan trả đũa từ các đối tác thương mại của Washington.
Thật không may, việc chống lại và đảo ngược lũng đoạn Nhà nước là một quá trình gian nan. Nó đòi hỏi những người tố giác, nhà báo, và nhà hoạt động chính trị phải liên tục lên tiếng, không có phần thưởng tức thì và với rủi ro cá nhân đáng kể. Sự kiên trì như vậy có thể mang lại kết quả lâu dài: các nhóm xã hội dân sự ở Bangladesh, Nam Phi, và Sri Lanka cuối cùng đã tước đoạt được quyền lực từ các chính trị gia tham nhũng. Nhưng thành công thường chỉ đến sau khi những kẻ chiếm đoạt đã làm sụp đổ nền kinh tế bằng cách vắt kiệt mọi thứ có giá trị từ nó. Và đến lúc đó, việc tái xây dựng là cực kỳ khó khăn. Với thuế quan, nhiều người hy vọng rằng chúng sẽ chỉ là tạm thời – rằng khi đối mặt với chứng khoán lao dốc và giá cả tăng cao, Washington sẽ rút lại các hạn chế. Có thể Nhà Trắng sẽ giảm một số mức thuế, đặc biệt khi các quốc gia vận động xin miễn trừ. Nhưng thực tế là thời đại thương mại tự do khó có thể quay trở lại. Thay vào đó, bất kỳ cuộc thương lượng nào giữa Trump và các quốc gia khác sẽ định hình một hệ thống kinh tế mới nổi được xác định bởi chủ nghĩa bảo hộ, căng thẳng, và các giao dịch. Kết quả sẽ không phải là nhiều việc làm hơn, như Trump đã cam kết, mà là sự hỗn loạn cho tất cả, kéo dài trong nhiều năm tới.
Hệ lụy từ thao túng chính trị và sai lầm kinh tế
Trong các quốc gia bị thao túng, không có lĩnh vực nào an toàn trước sự can thiệp chính trị. Các ngân hàng là đối tượng đặc biệt dễ bị tổn thương. Sau tất cả, các công ty tài chính cung cấp vốn cho nền kinh tế và tạo điều kiện cho các giao dịch – cả hai đều là yếu tố thiết yếu cho hành vi biển thủ tài sản.
Ở Bangladesh, ví dụ, cựu Thủ tướng Sheikh Hasina đã sử dụng quyền kiểm soát của mình đối với các ngân hàng để cướp ít nhất 17 tỷ đô la từ đất nước, theo chính phủ lâm thời của Bangladesh -một số ước tính cho rằng con số này có thể lên tới 30 tỷ đô la, tương đương 7% GDP của quốc gia.
Ở Malaysia, cựu Thủ tướng Najib Razak đã tài trợ cho một loạt các kế hoạch thân hữu bằng cách chuyển trái phiếu được chính phủ bảo lãnh cho các công ty liên minh thông qua 1MDB, một ngân hàng phát triển nhà nước. Những công ty này, đổi lại, cung cấp tài trợ cho đảng của Najib. Một khoản 700 triệu đô la đã tìm đường đến tài khoản cá nhân của ông ta.
Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan ép buộc các ngân hàng quốc doanh cho vay nhiều hơn cho các thị trưởng địa phương ủng hộ ông. Những thị trưởng này sau đó sử dụng các khoản tiền cho các dự án chi tiêu giúp họ và Erdogan giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử.
Các chính trị gia triển khai vô số biện pháp để chiếm quyền kiểm soát các tổ chức tài chính của đất nước. Ở Thổ Nhĩ Kỳ, Erdogan sử dụng quyền hành pháp để bổ nhiệm đồng minh vào các ngân hàng quốc doanh. Najib đã tạo ra 1MDB từ đầu, biến nó thành lãnh địa cá nhân của mình.
Ở Hungary, Thủ tướng Viktor Orban sử dụng một kế hoạch phức tạp liên quan đến việc mua bán cổ phần ngân hàng giảm giá để giành quyền kiểm soát công ty tài chính tư nhân lớn nhất nước này. Và theo Ahsan Mansur, thống đốc ngân hàng trung ương Bangladesh, Hasina đã sử dụng lực lượng tình báo quân đội của đất nước để bắt cóc và đe dọa các giám đốc ngân hàng cùng thành viên hội đồng quản trị, buộc họ bán cổ phần cho bạn bè nhà tài phiệt của bà.
Ở Mỹ, Trump và Musk chưa trực tiếp tàn phá hệ thống ngân hàng như những ví dụ này, nhưng họ đã nhắm đến các cơ quan tài chính quan trọng như IRS và Cục Dự trữ Liên bang, đe dọa làm suy yếu khả năng giám sát của chúng. Đồng thời, Trump đã triển khai thuế quan dựa trên một phép tính sai lầm về thâm hụt thương mại. Theo Trump, Mỹ cần các thuế quan lớn để khắc phục sự mất cân đối thương mại của mình. Có rất ít logic trong quan niệm này. Đúng là Mỹ có thâm hụt thương mại với hầu hết các quốc gia, nhưng không có gì sai trái với sự thật đó. Thay vào đó, điều này chỉ có nghĩa là các quốc gia khác hiệu quả trong việc sản xuất hàng hóa mà người tiêu dùng Mỹ muốn, vì vậy người Mỹ mua nhiều từ họ hơn là ngược lại. Tuy nhiên, Trump tin rằng bất kỳ quốc gia nào có thặng dư thương mại song phương với Mỹ, theo định nghĩa, là đang gian lận, và các thuế quan đáp trả là cần thiết để cân bằng mọi thứ. Để quyết định áp thuế quan nào, Trump bề ngoài đã tính toán tất cả các cách mà các quốc gia gian lận – bao gồm qua thuế quan, rào cản phi thuế quan, và thao túng tiền tệ – để ước tính tổng “thuế quan” mà mỗi quốc gia áp lên Mỹ. Trong thực tế, điều này có nghĩa là chia thâm hụt thương mại của Mỹ với một quốc gia cho lượng hàng hóa mà quốc gia đó xuất khẩu sang Mỹ. (Những tính toán này tiện lợi loại trừ thương mại dịch vụ – như du lịch, giáo dục, và dịch vụ kinh doanh – nơi Mỹ có thặng dư với hầu hết các đối tác thương mại của mình). Sau đó, Trump hào phóng giảm giá 50% cho mỗi quốc gia, áp thuế quan đáp trả lên hàng nhập khẩu tương đương một nửa con số đó.
Để thấy điều này hoạt động thế nào trong thực tế, hãy nhìn vào Trung Quốc. Năm 2024, Mỹ có thâm hụt thương mại 295,4 tỷ đô la với quốc gia này, và nhập khẩu 438,9 tỷ đô la hàng hóa Trung Quốc. Trump do đó tính toán rằng Trung Quốc có mức thuế hiệu quả 67% lên hàng nhập khẩu từ Mỹ – tức là 295,4 tỷ đô la chia cho 438,9 tỷ đô la. Trump sau đó đặt thuế quan đáp trả lên hàng nhập khẩu từ Trung Quốc ở mức 34% (một nửa của 67%), dường như cộng thêm vào mức thuế 20% đã có, tổng cộng thành mức thuế 54% lên hàng nhập từ Trung Quốc – nhưng ai mà đếm kỹ chứ? Mỹ và Hàn Quốc có một hiệp định thương mại tự do, nhưng Hàn Quốc có thặng dư thương mại với Mỹ. Do đó, theo logic của Trump, họ hẳn đang gian lận. Theo tính toán của Nhà Trắng, Hàn Quốc áp khoảng 50% thuế lên hàng xuất khẩu của Mỹ. Kết quả là, Trump đã áp thuế 26% lên hàng nhập từ Hàn Quốc. Còn những quốc gia mà Mỹ có thặng dư thương mại thì sao? Mỹ xuất khẩu nhiều hàng hóa sang Úc và Vương quốc Anh hơn là nhập từ những quốc gia này. Chắc chắn, điều này cho thấy Mỹ là kẻ gian lận trong hai mối quan hệ này. Nhưng theo quan điểm của Nhà Trắng, chỉ có các quốc gia khác gian lận. Thực tế, hai quốc gia này vẫn bị áp thuế 10%. Người ta có thể hỏi, tại sao lại áp thuế trong những trường hợp như vậy? Câu trả lời, có vẻ như, là “Tại sao không?”
Hậu quả kinh tế của kiểu chiếm đoạt ngân hàng này có thể rất tàn khốc. Rõ ràng nhất, nó rút hàng tỷ đô la ra khỏi nền kinh tế của một quốc gia:, ví dụ, Najib đã dùng 1MDB để chiếm 4 tỷ đô la từ nhà nước Malaysia (1% GDP của nước này), và Hasina có thể đã chiếm đoạt tới 30 tỷ đô la từ Bangladesh. Nhưng việc chiếm đoạt ngân hàng còn làm xói mòn thị trường theo những cách tinh vi hơn. Ngân hàng chỉ có một lượng tiền nhất định để cho các công ty vay, nên khi họ cho vay dựa trên quan hệ chính trị, họ bỏ qua cơ hội cấp tín dụng cho các công ty lành mạnh hoặc triển vọng. Đôi khi, họ thậm chí cạn tiền vì cho các công ty có quan hệ tốt vay vốn. Người dân thường sau đó mất tiền gửi, và một cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra. Ở Sri Lanka và Thổ Nhĩ Kỳ, kết quả là lạm phát cực đoan, khi chính phủ liên tục in tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách. (Thổ Nhĩ Kỳ cũng từ chối tăng lãi suất, với hy vọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tiếp tục.) Tương tự, thuế quan tự chúng sẽ không xóa bỏ thâm hụt thương mại tổng thể của Mỹ – trừ khi nước này hoàn toàn tự cô lập khỏi thương mại quốc tế. Đó là vì thâm hụt thương mại, thực chất, là khoảng cách giữa tiết kiệm nội địa và đầu tư. Mỹ vẫn là một nơi tốt để đầu tư, nhưng tỷ lệ tiết kiệm cá nhân của nó thấp, và chính phủ chạy thâm hụt ngân sách khổng lồ. Nếu Trump thực sự muốn đưa tài khoản thương mại vào trạng thái cân bằng, ông sẽ tốt hơn nếu theo đuổi các biện pháp thúc đẩy tiết kiệm quốc gia. Và ngay cả khi Mỹ không có thâm hụt thương mại tổng thể, nó vẫn có thể có thâm hụt với một số quốc gia và thặng dư với những quốc gia khác. Mất cân đối thương mại song phương chỉ là bản chất của thương mại quốc tế.
Trump cũng xem thuế quan như một công cụ để hồi sinh sản xuất Mỹ. Nhưng lợi ích đó là suy đoán, sẽ xảy ra xa trong tương lai, và bị lấn át bởi các chi phí hiển nhiên. Thuế quan của Trump bao trùm một phạm vi sản phẩm và đối tác thương mại rộng lớn đến mức chúng sẽ không thể tránh khỏi việc gây ra tác động bất lợi lên nền kinh tế Mỹ – với chi phí của sự gián đoạn được người tiêu dùng và doanh nghiệp Mỹ gánh chịu ở hầu hết mọi ngành.
Khi chính phủ phục vụ thiểu số: hệ lụy từ đặc quyền và lạm dụng quyền lực
Những kẻ lũng đoạn Nhà nước, tất nhiên, không giới hạn sự thao túng của họ ở các ngân hàng. Họ cũng thay đổi các chính sách kinh tế và quy định của chính phủ. Ở Sri Lanka, các chính phủ do các thành viên của gia đình Rajapaksa lãnh đạo, vốn thống trị đất nước từ 2005 đến 2022, đã cắt giảm thuế quan nhập khẩu đường, thực chất là trao cho một công ty thương mại thân cận với họ một khoản giảm thuế lớn. Nó đã hiệu quả: công ty này bán số đường nhập khẩu giá rẻ mà không giảm giá, thu về lợi nhuận khổng lồ. Nhưng doanh thu của đất nước chịu thiệt hại lớn, mất một khoản tiền tương đương 1,3% doanh thu thuế của Sri Lanka cho năm 2021. Trong các trường hợp khác, những kẻ chiếm đoạt chỉ đơn giản là miễn trừ các quy định cho các công ty được ưu ái. Cựu Tổng thống Tunisia Zine el-Abidine Ben Ali và gia đình ông, sở hữu các công ty nhập khẩu hàng tiêu dùng như ô tô và điện tử, lẽ ra phải trả rất nhiều thuế nhập khẩu. Nhưng chính phủ của ông cho phép các công ty có quan hệ chính trị trốn thuế mà không bị trừng phạt. Kết quả là gia đình Ben Ali kiếm được lợi nhuận khổng lồ. Các công ty không có quan hệ, trong khi đó, phải trả thuế – đặt họ vào thế bất lợi và làm gia tăng bất bình đẳng.
Những miễn trừ như vậy là bất hợp pháp. Nhưng những kẻ chiếm đoạt cẩn thận triệt phá bất kỳ cơ quan nào có thể điều tra họ hoặc kiềm chế nỗ lực của họ. Ở Nam Phi, cựu Tổng thống Jacob Zuma, người lãnh đạo đất nước từ 2009 đến 2018, đã hợp tác với Ajay, Atul, và Rajesh Gupta – ba anh em doanh nhân – để cố gắng triệt phá Cơ quan Thuế vụ Nam Phi (SARS). Là một cơ quan, SARS được kính trọng vì điều tra trốn thuế và tội phạm tài chính, và vào năm 2013, nhà Gupta nhận được tin rằng họ đang bị giám sát. Nhưng vào năm 2014, Zuma bổ nhiệm một ủy viên trung thành đã thanh trừng ban quản lý của cơ quan. Ông ta đưa các nhà tư vấn vào để đề xuất một cuộc tái cấu trúc phá hủy khả năng điều tra của SARS. Trong khi đó, để giảm thiểu phản ứng chính trị, nhà Gupta dùng tờ báo và đài truyền hình của họ để chạy một chiến dịch bôi nhọ làm suy yếu danh tiếng của SARS. Đối với Zuma và nhà Gupta, những nỗ lực này thành công. Một SARS bị tê liệt đã từ bỏ cuộc điều tra vào các công ty của nhà Gupta. Nhưng việc triệt phá cơ quan này hóa ra lại tồi tệ cho Nam Phi. Kể từ khi tái cấu trúc, SARS đã liên tục không đạt mục tiêu thu ngân sách, dẫn đến cắt giảm chi tiêu cho cơ sở hạ tầng rất cần thiết.
Ở Mỹ, Trump và Musk đang đi theo một con đường tương tự. Các cơ quan quản lý quan trọng như Ủy ban Truyền thông Liên bang (FCC) và Ủy ban Thương mại Liên bang (FTC) giờ do những người trung thành với Trump lãnh đạo. IRS chưa bị tàn phá như SARS, nhưng Trump và Musk đã rõ ràng rằng cơ quan này nằm trong tầm ngắm của họ, cùng với Cục Dự trữ Liên bang. Trump cũng đã bổ nhiệm những người thân cận vào FBI và Bộ Tư pháp, hy vọng họ sẽ truy đuổi kẻ thù của ông. Đồng thời, các chính sách thuế quan của ông thao túng nền kinh tế toàn cầu theo cách tương tự. Ông lập luận rằng các quốc gia như Trung Quốc đã lợi dụng các quy tắc thương mại để tiếp cận thị trường Mỹ trong khi hạn chế tiếp cận thị trường của họ, nhưng thay vì sửa chữa hệ thống dựa trên quy tắc của WTO, ông đã vung rìu vào thương mại với hầu hết mọi đối tác lớn của Mỹ, không tha cho cả đồng minh lẫn đối thủ. Nhiều người hy vọng rằng khi đối mặt với thị trường chứng khoán lao dốc và giá cả tăng cao, Trump sẽ rút lại các biện pháp thuế quan này, nhưng ngay cả khi ông giảm một số mức thuế, thiệt hại đối với niềm tin của doanh nghiệp và nhà đầu tư đã xảy ra, đe dọa đẩy kinh tế Mỹ và toàn cầu vào suy thoái.
Từ lợi ích nhóm đến suy thoái toàn cầu
Không phải mọi hành vi lũng đoạn Nhà nước đều phức tạp. Đôi khi, các nhà tài phiệt chỉ đơn giản là cướp trực tiếp từ nhà nước. Erdogan, ví dụ, đã thay đổi luật đấu thầu công của Thổ Nhĩ Kỳ nhiều lần để ông có thể tự mình quyết định kết quả các cuộc đấu thầu. Ông đã sử dụng quyền lực này để chuyển các hợp đồng chính phủ cho 5 tập đoàn, nằm trong số 10 công ty thành công nhất thế giới trong việc giành hợp đồng công. Đổi lại, những doanh nghiệp này, nhiều trong số đó sở hữu tài sản truyền thông, đã tâng bốc Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ bằng tin tức tích cực, quyên góp cho các tổ chức từ thiện do đảng của ông điều hành, và gây áp lực buộc nhân viên bỏ phiếu cho Erdogan. Nam Phi cung cấp một trường hợp khác. Dưới thời Zuma, anh em nhà Gupta đã giành được hết hợp đồng này đến hợp đồng khác và sử dụng quan hệ của họ để moi tiền lại quả từ các công ty khác. Bắt đầu từ một công ty máy tính nhỏ, họ sớm có một doanh nghiệp trị giá hàng tỷ đô la, hoạt động trong các lĩnh vực đa dạng như sữa, tư vấn quản lý, và than. Họ gây ảnh hưởng to lớn đến chính phủ của Zuma, chọn người mà ông bổ nhiệm vào các vai trò nội các quan trọng và chọn lãnh đạo các doanh nghiệp nhà nước. Nhà Gupta, đổi lại, chuyển tiền vào túi Zuma và tung ra tuyên truyền ủng hộ Zuma. Ở Mỹ, Trump và Musk đang làm điều tương tự, chuyển các hợp đồng chính phủ cho các công ty của Musk và cắt tài trợ cho những ai không ủng hộ họ.
Phần còn lại của thế giới vẫn đang phản ứng với thông báo thuế quan của Trump. Nhưng các quốc gia có lẽ sẽ đáp trả bằng sự kết hợp của trả đũa, xoa dịu, và đa dạng hóa. Mỗi cách tiếp cận này đều có thách thức riêng. Hãy xem xét, trước tiên, việc trả đũa Mỹ. Nhiều quốc gia đã hứa sẽ áp thuế lên hàng hóa sản xuất tại Mỹ để đáp lại những khiêu khích của Trump. Công dân của họ cũng đang tức giận. Người tiêu dùng Canada đang tẩy chay sản phẩm Mỹ, và du khách từ phần còn lại của thế giới có thể sẽ tránh xa Mỹ. Nhưng trả đũa mang theo chi phí riêng vì nó làm tăng sự bất định về thương mại toàn cầu, điều này làm tổn thương đầu tư kinh doanh. Xoa dịu ít rủi ro hơn, và chắc chắn nằm trong lợi ích của mỗi quốc gia bị áp thuế để đàm phán với Trump. Thương mại song phương không thể cân bằng qua đêm, nhưng các quốc gia có thể hứa mua thêm hàng từ Mỹ và giảm rào cản với những hàng nhập đó. Trump đã biện minh cho các đợt thuế trước bằng lý do an ninh quốc gia rộng hơn, sử dụng chúng như công cụ để buộc các quốc gia hạn chế di cư bất hợp pháp và dòng ma túy bất hợp pháp; các đối tác thương mại của Mỹ có thể đề nghị thực hiện các biện pháp mạnh mẽ để ngăn chặn những vấn đề đó đến bờ biển Mỹ. Trump thích một thỏa thuận, sau cùng, nên mỗi quốc gia sẽ phải tìm cách để ông ta tuyên bố chiến thắng (mà ông ta sẽ làm trong bất kỳ trường hợp nào). Tuy nhiên, ngay cả khi các quốc gia khác hứa mua thêm hàng Mỹ, không chắc thặng dư thương mại của họ với Mỹ sẽ giảm nhanh đủ để làm hài lòng tổng thống, khiến họ dễ bị thêm các biện pháp trừng phạt. Và nếu nền kinh tế Mỹ bắt đầu chững lại vì thuế quan, Trump chắc chắn sẽ đổ lỗi thêm cho phần còn lại của thế giới.
Sự lũng đoạn như vậy càng kìm hãm tăng trưởng. Trong một nền kinh tế lành mạnh, các công ty cạnh tranh về chất lượng và giá cả. Nhưng trong những nền kinh tế bị chiếm đoạt, các công ty thành công bằng cách tạo dựng quan hệ đúng đắn, khiến họ ít động lực để đổi mới hay hiệu quả. Một số công ty tốt nhất thua cuộc chỉ vì thiếu mạng lưới phù hợp. Những người muốn khởi nghiệp không buồn bắt đầu kinh doanh. Nhiều lao động lành nghề rời bỏ đất nước để tìm kiếm thị trường nơi tài năng, chứ không phải gần gũi quyền lực, được tưởng thưởng. Các công ty được ưu ái, trong khi đó, tính giá cao và giao hàng kém. Sản lượng kinh tế, từ đó, suy giảm. Chất lượng cuộc sống tồi tệ hơn. Đôi khi, người ta thậm chí mất mạng. Theo nhiều nghiên cứu, trận động đất ở Thổ Nhĩ Kỳ năm 2023 sẽ ít chết chóc hơn nếu cơ sở hạ tầng của nước này tốt hơn. Nhưng nó không tốt – vì Erdogan đã bảo vệ các công ty xây dựng khỏi cạnh tranh và giám sát. Việc chiếm đoạt nhà cung cấp điện quốc gia Nam Phi, Zuma, là một minh họa sống động khác về cách mà sự lũng đoạn gây thiệt hại.
Zuma từng là ngôi sao trong lĩnh vực của mình; nó được bầu là công ty điện hàng đầu thế giới tại Giải thưởng Năng lượng Toàn cầu Financial Times năm 2001. Nó đối mặt với nhiệm vụ lớn vào những năm 1990 và đầu những năm 2000: duy trì tiêu chuẩn trong khi mở rộng điện đến nửa số hộ gia đình Nam Phi chưa có điện dưới chế độ apartheid. Nhưng ảnh hưởng của nhà Gupta đã làm trầm trọng thêm thách thức của Zuma. Dưới thời Zuma, Zuma bị ép mua than từ gia đình Gupta thay vì trên thị trường mở. Nhà Gupta nhờ đó tự do tính giá cắt cổ và giao sản phẩm kém chất lượng. Anh em nhà này kiếm được cả gia tài, nhưng Zuma giờ chật vật cung cấp năng lượng cho người Nam Phi, những người phải đối mặt với mất điện hàng ngày. Theo ước tính của Kho bạc Nam Phi, những thất bại tại Zuma và một công ty nhà nước khác, nhà điều hành đường sắt Transnet, đã làm giảm khoảng 30% nền kinh tế Nam Phi trong 15 năm qua.
Các quốc gia khác, đặc biệt những nước đã có quan hệ thương mại mạnh, có thể bỏ qua Mỹ hoàn toàn. Chẳng hạn, Trung Quốc, Nhật Bản, và Hàn Quốc có thể cố gắng cùng nhau bảo vệ mình khỏi tác động của thuế quan Mỹ bằng cách tăng cường liên kết thương mại lẫn nhau. Nhưng mỗi nước này phụ thuộc lớn vào xuất khẩu để thúc đẩy kinh tế và bị nhu cầu nội địa yếu đè nặng. Dung lượng dư thừa khổng lồ và nhu cầu nhập khẩu yếu của Trung Quốc, đặc biệt, đe dọa hai nền kinh tế kia. Kết quả là, các nước này có thể sẽ thận trọng với việc mở cửa hoàn toàn thị trường cho xuất khẩu của nhau. Người châu Âu, về phần mình, đã báo hiệu sẵn sàng hợp tác với các quốc gia khác về thương mại. Nhưng họ không muốn trở thành bãi rác cho xuất khẩu của các nước khác. Dẫu vậy, đối mặt với hạn chế tiếp cận thị trường Mỹ và nhu cầu tiêu dùng Mỹ yếu hơn, phần còn lại của thế giới sẽ tìm đến đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, các sắp xếp thương mại loại trừ Mỹ, và các cách khác để tự bảo vệ trước một cuộc chiến thương mại toàn cầu đang rình rập. Nhưng thực tế là họ chỉ có thể làm được nhiều đến thế. Thực ra, ngay cả khi Mỹ rút khỏi các thuế quan rộng rãi, đáng kể mà Trump đã công bố, thiệt hại đã xảy ra với niềm tin của doanh nghiệp và nhà đầu tư. Washington đã phủ bóng đen lên đầu tư kinh doanh và nhu cầu tiêu dùng, điều này có thể đẩy nền kinh tế Mỹ đang suy yếu vào suy thoái—và kéo theo phần còn lại của kinh tế thế giới xuống cùng.
Bóng ma chủ nghĩa bảo hộ và di sản tàn phá của Trump – Musk
Cuối cùng, những rắc rối kinh tế này gây vấn đề cho những kẻ lũng đoạn Nhà nước và những người theo chủ nghĩa bảo hộ như Trump. Sau tất cả, chỉ có một lượng tiền nhất định họ có thể cướp, và chỉ có một mức độ gián đoạn mà nền kinh tế toàn cầu có thể chịu đựng.
Nhưng các nhà tài phiệt hiếm khi thay đổi hướng đi khi thị trường sụp đổ. Thay vào đó, họ cưỡi nền kinh tế đến tận cùng, cướp bóc cho đến khi nó tàn lụi. Ở Sri Lanka, ví dụ, hành vi trộm cắp của nhà Rajapaksa đã đẩy tỷ lệ nợ trên GDP lên 114% vào năm 2022, gây ra khủng hoảng cán cân thanh toán dẫn đến thiếu hụt mãn tính nhiên liệu, thực phẩm, và thuốc men. Lạm phát chạm 49%. Nhưng Tổng thống Gotabaya Rajapaksa và anh trai ông, người làm thủ tướng, vẫn duy trì giảm thuế cho thân hữu. Họ áp dụng kiểm soát mua ngoại tệ nhưng vẫn cho bạn bè tiếp tục tiếp cận đô la. Họ có thể vỡ nợ và xin Quỹ Tiền tệ Quốc tế cứu trợ, điều này có thể giúp người dân Sri Lanka bình thường mua lại hàng hóa thiết yếu. Nhưng thay vào đó, họ tiếp tục trả nợ trái phiếu, vốn do các đồng minh của họ sở hữu. (dù sao đi nữa Sri Lanka cuối cùng cũng vỡ nợ.) Với thuế quan, Trump không định hình một kỷ nguyên việc làm mà là một thời kỳ hỗn loạn, phá hủy niềm tin của doanh nghiệp và nhà đầu tư, đe dọa đẩy kinh tế Mỹ và toàn cầu vào suy thoái.
Trừ khi họ cai trị các chế độ độc tài hoàn toàn, các nhà tài phiệt phải đối mặt với sự phản đối. Ngay cả các nền dân chủ khiếm khuyết cũng có các cơ quan cố gắng buộc quyền lực hành pháp chịu trách nhiệm. Tòa án đảo ngược các quyết định bất hợp pháp, cơ quan kiểm toán phát hiện gian lận, và nhà báo phanh phui các thỏa thuận tham nhũng. Những người dũng cảm mạo hiểm mọi thứ để tố giác hành vi sai trái. Đôi khi, họ xuống đường biểu tình. Nhưng các lãnh đạo lũng đoạn quyền lực vẫn tiếp tục, và họ thường thành công trong việc tránh trách nhiệm.Sau tất cả, lũng đoạn Nhà nước đảm bảo rằng những người quyền lực nhất trong nước chính là những kẻ chiếm đoạt. Họ có nhiều tiền nhất và kiểm soát bộ máy chính trị.
Tuy nhiên, đôi khi phe đối lập thành công. Hasina, Rajapaksa, và Zuma cuối cùng bị lật đổ khỏi ghế quyền lực. Nhưng quá thường xuyên, những kẻ chiếm đoạt chỉ bị trục xuất sau khi nền kinh tế rơi vào rắc rối nghiêm trọng. Ở Sri Lanka, phải mất hàng tháng thiếu hụt và giá cả tăng vọt trước khi người biểu tình có thể lật đổ nhà Rajapaksa. Ở Bangladesh, người biểu tình đã hạ bệ Hasina sau khi bà cố gắng phân bổ thêm việc làm chính phủ cho đồng minh. Nhưng đến lúc đó, nền kinh tế đất nước đã bị tàn phá. Ngày nay, hệ thống ngân hàng đang trên bờ vực sụp đổ, với người dân không thể rút tiền gửi và do đó không thể mua ngay cả những hàng hóa cơ bản.
Thật khó để các quốc gia phục hồi từ thiệt hại sâu rộng như vậy. Các lãnh đạo mới chật vật vá những lỗ hổng kinh tế khổng lồ do tài sản bị đánh cắp để lại vì nền kinh tế tan hoang của họ không có cơ sở thuế rõ ràng. Hệ thống tài chính tan rã, nên họ cũng khó vay mượn. Họ có thể cố gắng truy lùng các nhà tài phiệt đang nắm giữ phần lớn tài sản bị đánh cắp này. Nhưng thường xuyên, những tinh hoa đó giờ sống ở nước ngoài. Những kẻ ở lại đã giấu tài sản của họ ra nước ngoài, khiến nhà nước khó thu hồi những gì họ nợ. Việc tái xây dựng các cơ quan nhà nước thậm chí còn thách thức hơn. Các lãnh đạo mới có thể muốn thanh trừng bộ máy quan liêu, nhưng sa thải hàng loạt sẽ trông như trả đũa, và điều đó sẽ làm tê liệt các cơ quan thiếu nhân sự cần thiết.
Kết quả là, các lãnh đạo phải áp dụng cách tiếp cận chậm mà chắc để tái thiết – có nghĩa là, trong một thời gian, tiếp tục trả lương cho các quan chức tham nhũng. Tương tự, để tránh thêm tàn phá, các chính phủ mới thấy rằng họ phải tiếp tục trả tiền cho các công ty tham nhũng. Xã hội cần một số tài nguyên nhất định – thực phẩm, nước, điện, thuốc – và sau nhiều năm bị chiếm đoạt, phải mất thời gian để tìm nhà cung cấp không phải là những kẻ đương nhiệm. Trước khi các doanh nghiệp mới tham gia thị trường, họ phải được thuyết phục rằng các cuộc đấu thầu không còn bị thao túng và rằng việc đấu thầu là đáng giá thời gian của họ.
Mỹ đã từ bỏ vai trò là thành trì của thương mại tự do và thay vào đó dẫn đầu sự hồi sinh của chủ nghĩa bảo hộ sẽ làm tổn thương người tiêu dùng và doanh nghiệp trên toàn thế giới. Những thuế quan này, nếu được duy trì, cùng với sự chiếm đoạt nội bộ của Trump và Musk, sẽ định nghĩa di sản của Trump không phải như một doanh nhân thông minh mà như một trở ngại phá hoại và ngang ngược đối với tiến bộ kinh tế. Nếu Trump và Musk thành công trong việc chiếm đoạt nền kinh tế Mỹ, họ sẽ không chỉ làm méo mó thị trường Mỹ. Họ sẽ gây hại cho các nền kinh tế trên toàn thế giới. Vì Mỹ là nền kinh tế lớn nhất hành tinh và trung tâm tài chính chính, những gì xảy ra ở đó lan tỏa khắp nơi. Và truyền thống, Washington là lực lượng mạnh mẽ nhất thế giới thúc đẩy quản trị trong sạch, gây áp lực và trừng phạt các tinh hoa tham nhũng ở nơi khác. Nhưng Trump đã chuyển sang đình chỉ thực thi Đạo luật Thực hành Tham nhũng Nước ngoài và rút lại các yêu cầu minh bạch doanh nghiệp. Nói cách khác, Mỹ không chỉ từ bỏ vai trò lịch sử của mình như một cảnh sát quản trị sự trong sạch của thế giới giai đoạn này. Nó đang đổi phe và trở thành một ông trùm tội phạm. Nó đang biến thành một hình mẫu rất khác. Cách tốt nhất để giải quyết lũng đoạn Nhà nước và chủ nghĩa bảo hộ, do đó, là tránh chúng ngay từ đầu. Nhưng thật không may cho người Mỹ, cuộc chiếm quyền của Trump và Musk và kỷ nguyên thuế quan của họ đã tiến triển tốt. Zuma mất nhiều năm trước khi trao cho nhà Gupta quyền tiếp cận không hạn chế vào chính quyền của ông ta; Trump đã trao nó cho Musk vào ngày đầu tiên nhậm chức. Bộ máy quan liêu Mỹ đã mất hàng ngàn nhân viên, và hàng ngàn người khác đang gặp rủi ro. Nếu Trump và Musk thành công, họ sẽ không chỉ làm tổn hại nước Mỹ mà cả thế giới, biến di sản của Trump thành một kẻ phá hoại kinh tế toàn cầu.
Biên dịch: Bùi Toàn
Các tác giả:
Elizabeth David-Barrett là Giáo sư về Quản trị và Liêm chính, đồng thời là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Tham nhũng tại Đại học Sussex.
Eswar Prasad là Giáo sư tại Trường Dyson thuộc Đại học Cornell và Nghiên cứu viên Cao cấp tại Viện Brookings.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của các tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của Nghiên cứu Chiến lược. Mọi trao đổi học thuật và các vấn đề khác, quý độc giả có thể liên hệ với ban biên tập qua địa chỉ mail: [email protected]