Dự báo các kịch bản tiếp theo cho cuộc xung đột
Tình hình hiện nay có thể xem là bước ngoặt quyết định hướng đi của cuộc chiến Ukraine. Tùy thuộc vào việc các bên đạt được thỏa thuận hòa bình hay không, cũng như nội dung thỏa thuận, có thể hình dung một số kịch bản lớn trong tương lai gần:
Kịch bản 1: Đạt được thỏa thuận hòa bình theo kế hoạch EU-Mỹ điều chỉnh (hòa bình “có điều kiện”). Đây là kịch bản lạc quan nhất, trong đó Ukraine chấp nhận một thỏa thuận hòa bình với những điều khoản đã được điều chỉnh giảm nhẹ nhờ nỗ lực của EU. Điều này có thể xảy ra nếu trong vài ngày tới (có thể lùi qua hạn chót vài hôm), Tổng thống Zelenskiy và Tổng thống Trump đồng ý trên nguyên tắc về bản kế hoạch 28 điểm đã hiệu chỉnh. Khi đó, một lệnh ngừng bắn lập tức sẽ được ban bố theo Điểm 28 của kế hoạch: cả hai bên dừng bắn và giữ nguyên vị trí trên chiến tuyến hiện tại. Quân đội Nga và Ukraine sẽ rút dần khỏi vùng đệm được chỉ định để tạo khoảng cách an toàn, dưới sự giám sát của các quan sát viên quốc tế. Hội đồng Hòa bình do ông Trump làm Chủ tịch sẽ được thành lập, bao gồm đại diện Mỹ, Nga, Ukraine, EU, bắt tay vào giám sát thực thi thỏa thuậnLính mũ nồi xanh LHQ hoặc lực lượng hỗn hợp quốc tế có thể được triển khai đến một số điểm nóng (ví dụ như quanh ZNPP hoặc dọc biên giới tạm thời) để đảm bảo không bên nào lén lút vi phạm.
Về lãnh thổ, trong kịch bản này Ukraine chấp nhận đóng băng xung đột tại các vùng do Nga đang kiểm soát. Nghĩa là Crimea cùng phần lớn Donetsk, Luhansk do Nga chiếm vẫn nằm dưới quyền kiểm soát của Nga, không có giao tranh thêm. Tuy nhiên, điểm mấu chốt là Ukraine không phải công nhận hợp pháp những vùng đó thuộc Nga. Thay vào đó, tình trạng của chúng sẽ được đưa ra đàm phán trong tương lai (có thể kéo dài nhiều năm). Một kịch bản khả dĩ là hai bên đàm phán trao đổi lãnh thổ: ví dụ Ukraine có thể chấp nhận nhường Crimea và một phần Donbas cho Nga, đổi lại Nga trả lại cho Ukraine một phần các vùng khác hoặc một số điều kiện có lợi (như chủ quyền cảng Odessa hay hành lang trên bộ an toàn). Đường phân giới ngừng bắn (dọc chiến tuyến hiện tại) có thể dần dần trở thành ranh giới chính thức nếu hai bên đạt đồng thuận, hoặc trở thành đường biên của một khu phi quân sự nếu không thống nhất được chủ quyền. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy những tình huống tương tự (ví dụ Bán đảo Triều Tiên đình chiến 1953, đường ranh ngừng bắn trở thành biên giới thực tế tới nay).
Sau khi hòa bình lặp lại, Ukraine sẽ tiến hành tổng tuyển cử sớm (Điểm 25). Cuộc bầu cử này rất quan trọng, bởi nó sẽ định đoạt tương lai chính trị Ukraine thời hậu chiến. Nếu ông Zelenskiy bị xem là nhượng bộ quá nhiều, ông có thể đối mặt thất bại trước các đối thủ. Ngược lại, nếu ông thuyết phục được dân chúng rằng hòa bình này cần thiết, ông có thể thắng cử nhờ uy tín đã dẫn dắt đất nước qua chiến tranh. Dù ai lên nắm quyền, chính phủ Ukraine sẽ phải thực thi các điều khoản: cắt giảm quân số từ mức động viên thời chiến xuống 800.000 quân thời bình, ban hành luật bảo vệ quyền của người nói tiếng Nga (theo chuẩn EU), và duy trì trạng thái trung lập (không gia nhập NATO ngay). Song song đó, các đảm bảo an ninh có hiệu lực: Mỹ ký hiệp ước song phương với Ukraine cam kết bảo vệ, NATO triển khai máy bay cảnh giới ở Ba Lan để răn đe Nga. EU cũng sẽ bắt đầu tiến trình đàm phán kết nạp Ukraine (điều có thể diễn ra nhanh hoặc chậm tùy tình hình cải cách ở Ukraine). Việc Ukraine tiến gần EU sẽ là kết quả tích cực của kịch bản này, giúp củng cố kinh tế và thể chế Ukraine.
Về kinh tế, kịch bản hòa bình cho phép bắt đầu công cuộc tái thiết quy mô lớn. Một Hội nghị quốc tế về Tái thiết Ukraine sẽ được tổ chức (có thể dưới sự bảo trợ của Ngân hàng Thế giới, EU, Mỹ, G7). Kế hoạch EU đã vạch ra các lĩnh vực hợp tác đầu tư: hiện đại hóa hạ tầng, phát triển công nghiệp công nghệ cao, khai thác tài nguyên, cải tổ năng lượng…. Nga trong kịch bản này sẽ thoát dần cô lập: nếu họ tuân thủ ngừng bắn, các lệnh trừng phạt của phương Tây sẽ được từng bước dỡ bỏ theo thỏa thuận. Nga thậm chí có thể được mời quay lại G8 trong vài năm tới như một cử chỉ tái hòa nhập. Quan hệ Mỹ-Nga cũng chuyển sang trạng thái cộng tác có điều kiện: hai nước ký các thỏa thuận hợp tác kinh tế trong các lĩnh vực đôi bên cùng lợi (năng lượng, công nghệ, thăm dò Bắc Cực…). Điều này gợi lại “thời kỳ hòa hoãn” mới tương tự sau Chiến tranh Lạnh.
Tuy nhiên, nguy cơ tiềm ẩn trong kịch bản hòa bình có điều kiện này cũng không nhỏ. Thỏa thuận 28 điểm trên giấy tờ trông đầy đủ, nhưng tính khả thi dài hạn vẫn là dấu hỏi. Một hòa bình kiểu “đóng băng xung đột” luôn có nguy cơ đổ vỡ nếu lòng tin không được củng cố. Ở đây, Ukraine rõ ràng mất mát lãnh thổ và phải chấp nhận hạn chế chủ quyền (không vào NATO), điều này có thể khiến một bộ phận người dân và chính trị gia Ukraine nuôi hận thù và muốn phục thù trong tương lai. Tương tự, phía Nga tuy thắng lợi nhiều, nhưng phe chủ chiến ở Nga vẫn có thể xem thỏa thuận như tạm nghỉ để chuẩn bị cho cuộc chiến sau. Như kết quả khảo sát đã nêu, 70% người Ukraine tin rằng Nga sẽ lại tấn công sau khi nghỉ ngơi. Lo ngại này có cơ sở: Nga có thể dùng thời gian hòa bình để củng cố lực lượng, cải thiện kinh tế nhờ dỡ trừng phạt, rồi vài năm sau tìm cớ tấn công tiếp nếu ban lãnh đạo hoặc tình hình có lợi cho họ. Pháp, Đức từng có kinh nghiệm đau thương với thỏa hiệp Munich 1938 hoặc Hiệp định Minsk 2015, khi nhượng bộ một chút không ngăn được chiến tranh lớn về sau. Chính vì thế, các lãnh đạo như Macron, von der Leyen đã yêu cầu phải có yếu tố răn đe mạnh để “Nga không thể quay lại”. Kế hoạch EU đã cố gắng đưa vào yếu tố đó (đảm bảo an ninh của Mỹ, cơ chế trừng phạt tự động nếu Nga vi phạm). Nếu cơ chế này vận hành nghiêm túc, nguy cơ Nga quay trở lại tấn công có thể giảm. Nhưng ai có thể đảm bảo 4 năm nữa Mỹ không đổi chính quyền và bỏ cam kết? Liệu người kế nhiệm ông Trump có tiếp tục duy trì những cam kết đó? Rõ ràng có bất định lớn về tương lai của thỏa thuận.
Hơn nữa, tình hình nội bộ Ukraine hậu hòa bình cũng rất phức tạp. Rất có thể sẽ có những nhóm cực đoan (các cựu binh, dân quân) không chấp nhận nhượng lãnh thổ và tiến hành bất tuân dân sự hoặc nổi dậy cục bộ. Một viễn cảnh nguy hiểm là bạo lực chính trị tái diễn ở Kiev (như từng xảy ra vụ ám sát Tổng thống Ai Cập Sadat sau khi ký hòa ước nhượng bộ Israel năm 1981). Nếu chính quyền Kiev suy yếu do bất ổn, thỏa thuận hòa bình cũng lung lay. EU và Mỹ sẽ phải đổ nhiều nguồn lực để đảm bảo ổn định nội bộ Ukraine, từ hỗ trợ kinh tế đến an ninh, nhưng không dễ. Điều này đòi hỏi họ phải có cam kết lâu dài, mà “lâu dài” thì vượt quá nhiệm kỳ chính trị thông thường – một thách thức thực sự.
Tuy vậy, kịch bản hòa bình dù sao vẫn tốt hơn tiếp tục chiến tranh. Nó đem lại lợi ích nhân đạo tức thì: đổ máu chấm dứt, hàng nghìn sinh mạng binh sĩ và dân thường sẽ được cứu. Cuộc sống người dân Ukraine ở hậu phương sẽ dần bình thường hóa, không còn cảnh mất điện triền miên, không còn lo trúng tên lửa mỗi đêm. Hàng triệu người tị nạn có thể hồi hương tái thiết. Với châu Âu, hòa bình nghĩa là khủng hoảng năng lượng sẽ giảm hẳn, kinh tế dần phục hồi (khi lệnh cấm vận dầu Nga được nới lỏng theo thỏa thuận). Trên bình diện thế giới, việc chấm dứt cuộc chiến lớn nhất thập kỷ sẽ giảm nguy cơ xung đột hạt nhân, ổn định lại quan hệ quốc tế, cho phép tập trung vào các vấn đề toàn cầu khác (như cạnh tranh Mỹ-Trung, vấn đề Trung Đông…). Tổng thư ký LHQ có thể ca ngợi đây là thắng lợi của ngoại giao đa phương, và ông Trump dĩ nhiên sẽ coi đó như một chiến công Nobel Hòa Bình của mình.
Tóm lại, kịch bản hòa bình mang lại nhiều điểm tích cực nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro lâu dài. Một nền hòa bình “nửa vời” có thể trở thành xung đột đóng băng kiểu Triều Tiên – kéo dài căng thẳng âm ỉ – hoặc xấu hơn là “hòa bình giả tạo” sụp đổ sau vài năm, dẫn đến chiến tranh tái phát.
Kịch bản 2: Đàm phán thất bại, chiến tranh tiếp diễn với sự suy giảm hỗ trợ phương Tây. Đây là kịch bản xấu, xảy ra nếu Ukraine không chấp nhận thỏa thuận mà Tổng thống Trump đề xuất, khiến Mỹ rút hoặc giảm mạnh viện trợ. Kịch bản này có khả năng nếu các đàm phán Geneva đổ vỡ hoàn toàn: giả sử Kiev khăng khăng từ chối nhượng lãnh thổ và Trump cũng không chịu nhường thêm sau hạn chót, hoặc có thể do sức ép dư luận trong nước, Zelenskiy quyết định đứng lên chống lại tối hậu thư. Lúc đó, ông Trump nhiều khả năng sẽ thực hiện lời đe dọa: cắt viện trợ quân sự và tình báo cho Ukraine. Thậm chí, để trừng phạt, Mỹ có thể vận động các đồng minh khác giảm hỗ trợ (dù việc này khó, nhưng áp lực tài chính của Mỹ lên IMF, WB… có thể ảnh hưởng). Ukraine trong kịch bản này đột ngột mất đi chỗ dựa lớn nhất trong cuộc chiến. Theo phân tích của ABC News, điều nguy hiểm nhất là mất hỗ trợ tình báo: hiện nay, phần lớn mục tiêu tấn công của Ukraine dựa vào tình báo vệ tinh, điện tử của Mỹ. Nếu Mỹ cắt nguồn này, Ukraine sẽ gần như mù lòa trước động thái quân Nga. Về vũ khí, châu Âu dù muốn giúp cũng không thể bù đắp: họ có thể mua vũ khí Mỹ nhưng nếu Mỹ không bán thì châu Âu cũng khó có thể làm gì hơn. Châu Âu có một số năng lực tình báo riêng (vệ tinh EU, UAV trinh sát) và có thể chia sẻ cho Ukraine, nhưng không thể bằng Mỹ được. Vì vậy, Ukraine sẽ rơi vào thế quân sự cực kỳ bất lợi. Cục diện chiến trường khi đó có lẽ nghiêng hẳn về Nga: quân Nga đang chiếm ưu thế cục bộ ở vài mặt trận (như họ mới chiếm Kupiansk, áp sát Avdiivka), nếu Ukraine không còn hỗ trợ phương Tây dồi dào, họ khó trụ vững. Nga sẽ tận dụng thời cơ đẩy mạnh tấn công ở Donetsk và có thể mở lại mũi tiến công từ Belarus xuống Kiev hoặc Volyn để gây sốc. Mục tiêu của Nga khi đó có thể mở rộng: chiếm thêm toàn bộ tỉnh Donetsk, Luhansk (còn sót lại phần do Ukraine giữ), thậm chí đánh chiếm thành phố Odessa trên Biển Đen nếu có thể, nhằm cô lập hoàn toàn Ukraine khỏi biển. Ông Putin đã bóng gió rằng nếu thỏa thuận sụp đổ, Nga sẽ tiến công tiếp, và chắc chắn họ sẽ làm.
Khi đó, châu Âu sẽ phải đối mặt thử thách lớn: họ dĩ nhiên không muốn bỏ rơi Ukraine, nhưng không có Mỹ, liệu họ có thể tiếp tục duy trì Ukraine chống trả? EU có quỹ quốc phòng và một số kho vũ khí, nhưng suốt cuộc chiến qua, phần lớn vũ khí nặng đều từ Mỹ (ví dụ các tổ hợp HIMARS, Patriot, bom JDAM, đạn pháo). Hơn nữa, sự chia rẽ trong NATO/EU sẽ bộc lộ: Ba Lan, Baltic có thể muốn tiếp tục mọi giá, nhưng các nước như Hungary, thậm chí Pháp, Đức có thể ngả theo hướng “thôi đành ép Ukraine nhượng bộ”. Nếu Mỹ quay lưng hoàn toàn, ý chí chung phương Tây dễ suy yếu. Hậu quả, Ukraine có thể càng cô đơn và cạn kiệt. Lúc đó Kiev sẽ phải chọn: hoặc đơn độc chiến đấu đến cùng (với hi vọng mong manh kéo dài đến hết nhiệm kỳ Trump, hy vọng một chính quyền Mỹ mới vào 2029 sẽ ủng hộ trở lại), hoặc đầu hàng trong thế yếu. Khả năng đầu tiên thực tế khá mờ mịt: 3-4 năm không Mỹ, Ukraine có lẽ không trụ nổi trước Nga – nước vẫn duy trì được sức mạnh quân sự cơ bản và sẵn sàng huy động thêm lính. Khả năng thứ hai (đầu hàng) đồng nghĩa Ukraine sẽ ký hòa ước với điều kiện tồi tệ hơn hiện nay rất nhiều – có lẽ phải mất thêm lãnh thổ (có thể toàn bộ bờ Biển Đen, toàn bộ miền đông), thậm chí thay đổi chế độ thân Nga. Đó là cơn ác mộng mà cả Kiev và châu Âu đều không muốn thấy.
Chính vì viễn cảnh ảm đạm đó, nhiều nhà phân tích cho rằng kịch bản 2 = chiến tranh tiếp diễn + Mỹ rút lui thực sự là thảm họa cho Ukraine và đe dọa an ninh châu Âu. Bản thân Tổng thống Zelenskiy cũng hiểu điều đó khi ông nói từ chối kế hoạch đồng nghĩa “mất một đối tác chủ gần như chốt”, tức Ukraine mất khả năng kháng cự hiệu quả. Ông cũng nói “giữ phẩm giá” nhưng rồi “mất đối tác” – đồng nghĩa có thể mất cả tự do về lâu dài. Do vậy, nhiều khả năng Ukraine sẽ không để xảy ra hoàn toàn kịch bản này. Thực tế đã thấy những dấu hiệu Kiev dịu giọng và EU can dự mạnh nhằm tránh kết cục xấu nhất. Dĩ nhiên, không thể loại trừ hoàn toàn: nếu đột ngột Trump cứng rắn quá mức (ví dụ đòi Zelenskiy ký nguyên hiệp ước không chỉnh sửa) và Zelenskiy quyết liệt không ký, tình huống xấu vẫn có thể xảy ra. Nhưng ngay cả khi đó, có thể châu Âu sẽ đơn phương tăng hỗ trợ để cứu vãn – ví dụ Đức, Pháp có thể cung cấp một số năng lực mà trước kia do dự (như tên lửa tầm xa hơn, máy bay chiến đấu châu Âu…). Song, hạn chế công nghệ vẫn còn: châu Âu không có mạng vệ tinh do thám lớn như Mỹ, cũng không sản xuất đủ đạn dược nhanh chóng bằng Mỹ. Cuộc chiến nếu tiếp tục có nguy cơ leo thang tàn khốc hơn: Nga có thể bung các lực lượng dự trữ, thậm chí có nguy cơ Nga sử dụng vũ khí hủy diệt lớn hơn (vũ khí nhiệt áp quy mô lớn, hoặc đe dọa hạt nhân cục bộ) khi không còn áp lực kiềm chế từ phía Mỹ.
Kéo dài chiến tranh còn đồng nghĩa con đường ngoại giao đóng lại. Việc Mỹ rút lui có thể thúc đẩy một số nước khác tìm giải pháp riêng: Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Quốc có thể ra đề xuất khác, nhưng với tình hình chiến trường nghiêng Nga, chắc khó có thỏa thuận nào tốt cho Ukraine. Lúc đó, bản kế hoạch Trump-EU 28 điểm dù nhiều nhược điểm, cũng có thể được nhìn lại như “cơ hội hòa bình bị bỏ lỡ” – giống như hiệp định Minsk năm xưa (2015) nhiều người từng chỉ trích, nhưng khi chiến tranh toàn diện nổ ra 2022 mới thấy nó còn tốt hơn tình trạng vô luật pháp. Tất nhiên, tình hình có thể trầm trọng đến mức EU phải cân nhắc can dự sâu hơn, ví dụ gửi lực lượng gìn giữ hòa bình tới miền tây Ukraine để tạo vùng an toàn nhân đạo nếu Nga tràn lan. Điều này sẽ đẩy xung đột lên tầm nguy hiểm toàn cầu, có nguy cơ đối đầu trực tiếp NATO-Nga. Đó là viễn cảnh xấu nhất mà chắc chắn EU, Mỹ đều cố tránh.
Nói gọn lại, kịch bản 2 sẽ là tiếp tục chiến tranh trong điều kiện bất lợi hơn cho Ukraine, dẫn tới khả năng Nga chiến thắng quân sự cục bộ, Ukraine bị tổn thất nặng, phương Tây chia rẽ, và an ninh châu Âu xấu đi nghiêm trọng. Đây là kịch bản mà tất cả các bên muốn né tránh, bởi hậu quả dây chuyền rất lớn: hàng chục nghìn người nữa chết, một quốc gia châu Âu có thể bị xóa tư cách độc lập, trật tự thế giới dựa trên luật pháp tan vỡ, và Nga sẽ được động viên từ thắng lợi để gây bất ổn thêm (Baltic? Moldova?). Chính vì vậy, dù không hài lòng, EU và thậm chí nhiều chính khách Mỹ cũng muốn tránh để kế hoạch hòa bình thất bại hoàn toàn. Một bài bình luận trên Responsible Statecraft đặt vấn đề cho những người phản đối thỏa hiệp: “Nếu không chấp nhận hòa bình kiểu này, vậy phương án thay thế là gì?”[i]. Quả thực, không có bảo đảm rằng tăng thêm viện trợ sẽ giúp Ukraine thắng – 4 năm qua đã cho thấy sự bế tắc. Cho nên xu hướng chung sẽ là cố gắng hiện thực hóa kịch bản hòa bình thay vì buông trôi sang kịch bản chiến tranh tiếp tục.
Kịch bản 3: Đàm phán kéo dài quá hạn, các bên tạm đình chiến không chính thức (hòa bình “từng phần”). Đây có thể coi là kịch bản trung gian, khi chưa đạt thỏa thuận toàn diện nhưng cũng không trở lại giao tranh toàn lực ngay. Giả sử đến hạn 27/11, Ukraine chưa thể ký vì còn vài điểm chưa thống nhất, ông Trump có thể quyết định gia hạn đàm phán thêm (vài tuần hoặc vài tháng). Khi đó, cuộc gặp Trump-Zelenskiy trực tiếp có thể diễn ra (đã có tin đồn Zelenskiy có thể sang Mỹ nếu cần). Trong thời gian đó, thực địa chiến trường có khả năng giữ nguyên trạng tương đối vì cả hai đang ngừng các chiến dịch lớn để chờ kết quả ngoại giao. Một tình huống đình chiến de facto có thể hình thành: không bắn phá quy mô lớn, dù có thể lác đác giao tranh nhỏ. Kịch bản này có tín hiệu khi Ngoại trưởng Rubio nói “hy vọng đạt thỏa thuận trước thứ Năm nhưng có thể lâu hơn”, cho thấy Mỹ cũng dự phòng khả năng kéo dài. Ưu điểm kịch bản này là tránh đổ vỡ hoàn toàn (Mỹ chưa cắt viện trợ ngay, Ukraine chưa bị dồn chân tường), nhưng nhược điểm là chiến tranh vẫn chưa kết thúc, mỗi ngày trôi qua vẫn tiềm ẩn rủi ro giao tranh nổ lại.
Nếu đàm phán kéo dài, áp lực chính trị lên lãnh đạo các bên cũng tăng. Ông Trump bị đối thủ chính trị trong nước (và có thể một số trong đảng Cộng hòa) chỉ trích nếu “nhún nhường châu Âu” quá nhiều. Ông Zelenskiy thì chịu sức ép từ phe dân tộc trong nước do “lê la đàm phán kéo dài làm suy yếu ý chí chiến đấu”. Ông Putin dĩ nhiên muốn kết thúc sớm trước khi thế cục đổi chiều, nhưng nếu thấy phương Tây dây dưa, ông có thể mất kiên nhẫn mà tăng áp lực quân sự (ví dụ leo thang bắn phá hạ tầng để buộc Ukraine sớm phải chấp nhận đàm phán). Do đó, kịch bản này khó duy trì lâu. Nó chỉ là bước đệm để tiến tới một trong hai kết quả: hoặc thỏa thuận đạt được (chuyển sang kịch bản 1), hoặc đổ vỡ (chuyển sang kịch bản 2).
Một phiên bản của kịch bản này có thể là thỏa thuận một phần: ví dụ, các bên đồng ý một số điểm (như ngừng bắn tạm thời, trao đổi tù binh, giải quyết vấn đề nhân đạo) nhưng trì hoãn các vấn đề khó khăn (như chủ quyền lãnh thổ) sang giai đoạn sau. Tức là ký một hiệp định ngừng bắn chứ chưa phải hiệp định hòa bình toàn diện. Điều này tương tự chiến tranh Triều Tiên (1953) chỉ ký hiệp định đình chiến, còn hiệp ước hòa bình đến nay chưa có. Nếu theo hướng này, Ukraine và Nga có thể ngừng bắn để cứu vãn tình hình nhân đạo, trong khi tranh cãi chủ quyền Crimea, Donbas sẽ để ngỏ. Đây có thể là lối thoát nếu không thể thống nhất điểm 21 (vấn đề lãnh thổ). Ưu điểm là dễ chấp nhận hơn về chính trị cho Ukraine (vì họ có thể nói chưa nhượng đất, chỉ là ngừng bắn), và Nga cũng tạm hài lòng khi giữ được đất kiểm soát. Tuy nhiên, nó tiềm ẩn nguy cơ xung đột tái diễn bất cứ lúc nào nếu thỏa thuận đình chiến bị vi phạm hoặc khi tương quan sức mạnh thay đổi.
Dù thế nào, kịch bản trung gian này cũng hướng tới việc “đóng băng” chiến trường trong ngắn hạn. Nó phù hợp khi mùa đông đến – đôi bên đều khó tấn công lớn, nên tạm ngừng chiến để thương lượng là hợp lý. Theo Reuters, trong cuộc họp Geneva, các bên đều nhận định hiện là “thời điểm nguy ngập” nhưng cũng có “cơ hội kết thúc chiến tranh”, nên cần tranh thủ. Nếu thỏa thuận chưa xong, họ có thể gia hạn ngừng bắn nhân đạo (giống các lệnh ngừng bắn ngắn hạn từng áp dụng ở Gaza hay Syria) để mua thời gian. Kịch bản này về cơ bản là một biến thể mềm của kịch bản 1, chỉ khác ở tiến độ thực hiện chậm hơn và thỏa thuận có thể không toàn diện ngay.
Tóm lại, khả năng cao nhất là sự pha trộn của kịch bản 1 và 3: tức đàm phán tiếp tục qua hạn chót ít ngày, các bên thống nhất phần lớn điều khoản, và một thỏa thuận hòa bình chính thức được ký vào cuối năm 2025. Kịch bản 2 (đổ vỡ) có xác suất thấp hơn vì không bên nào muốn chịu rủi ro lớn đó. Các nhà phân tích như tại Reuters nhận định “đã đạt tiến bộ ngoại giao lớn nhất từ trước tới nay để kết thúc chiến tranh”, ngụ ý rằng khả năng hòa bình là cao hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, chúng ta cũng nhớ lời ông Merz: “vẫn còn khá xa một kết quả tốt cho mọi người” – nghĩa là thỏa thuận sắp tới, nếu có, cũng không thể làm hài lòng trọn vẹn tất cả các bên, mà chỉ là phương án ít tệ nhất.
Đánh giá về kế hoạch hòa bình của EU: Khả thi đến đâu và tác động đối với xung đột
Bản kế hoạch hòa bình 28 điểm phiên bản EU – vốn là kết quả thương lượng và thỏa hiệp giữa các đồng minh – nhìn chung được đánh giá là toàn diện và cân bằng hơn so với đề xuất ban đầu của Mỹ. Việc EU tham gia điều chỉnh đã loại bỏ những yếu tố bất công nhất đối với Ukraine, đồng thời bổ sung các cơ chế để tăng tính bền vững cho hòa bình. Tuy nhiên, mức độ khả thi của kế hoạch này trong thực tế vẫn còn là dấu hỏi lớn, và nó cũng gây ra những tranh luận trái chiều về tính đúng đắn và ảnh hưởng đối với cục diện xung đột.
Trước hết, điểm tích cực nổi bật của kế hoạch EU là nó đã đáp ứng nhiều quan ngại cốt lõi của Ukraine và châu Âu, giúp thỏa thuận tiệm cận hơn tới khái niệm “hòa bình công bằng”. Tổng thống Zelenskiy có thể vịn vào những sửa đổi này để thuyết phục người dân rằng thỏa thuận vẫn giữ vững được phẩm giá quốc gia (dù phải nhượng bộ một phần). Theo Reuters, phái đoàn Ukraine tại Geneva đã thừa nhận phiên bản mới “phản ánh lợi ích quốc gia của họ”. Nhìn từ góc độ đó, kế hoạch EU là phương án khả thi nhất để vừa đạt hòa bình, vừa không hy sinh triệt để lẽ phải.
Bên cạnh đó, kế hoạch EU còn có ưu điểm là giữ được sự thống nhất phương Tây và lôi kéo Mỹ trở lại quỹ đạo đa phương. Trước đó, kế hoạch đơn phương của Trump khiến NATO/EU rạn nứt nghiêm trọng. Nhờ EU tích cực điều chỉnh, nay cả hai bên đã xích lại gần nhau với một kế hoạch chung. Ngoại trưởng Rubio ca ngợi cuộc đàm phán vừa qua là “tốt nhất từ trước tới nay” với Ukraine và tin tưởng lãnh đạo hai bên sẽ thông qua, cho thấy Mỹ cũng hài lòng với hướng đi mới. Nếu thỏa thuận thành công, đó sẽ là chiến thắng của tinh thần hợp tác xuyên Đại Tây Dương. Một châu Âu đoàn kết đứng sau Ukraine, phối hợp nhịp nhàng với Mỹ, không chỉ giúp chấm dứt chiến tranh này mà còn tạo tiền lệ cho những khủng hoảng tương lai (ví dụ Đài Loan, Trung Đông) – rằng liên minh dân chủ vẫn vững mạnh. Do vậy, nhiều nhà ngoại giao đánh giá cao vai trò EU: “Nếu không có EU tham gia, kế hoạch hòa bình đã chết yểu” (lời cựu đại sứ Mỹ tại NATO Ivo Daalder trên tờ Foreign Affairs vào tháng 9/2025[ii]). Châu Âu đã chứng minh họ có tiếng nói và có thể đóng góp tích cực cho an ninh lục địa, thay vì chỉ theo sau Mỹ.
Xét về mặt lợi ích các bên, kế hoạch EU hướng tới kết cục “hai bên cùng chấp nhận được” (mutually acceptable). Ukraine không đạt 100% mục tiêu (không đòi lại hết đất, không vào NATO ngay), nhưng cũng tránh được thất bại hoàn toàn (giữ được chủ quyền các vùng còn kiểm soát, nhận bảo trợ an ninh, bước vào EU). Nga không chiếm trọn Ukraine, nhưng giữ được những phần đã chiếm quan trọng, buộc Ukraine trung lập, thoát dần trừng phạt – đó đã là thắng lợi lớn so với tình hình đầu 2022. Mỹ và EU tránh được vũng lầy chiến tranh kéo dài, cứu vãn sinh mạng và tài chính, đồng thời có thể tập trung vào những ưu tiên khác (Mỹ lo đối phó Trung Quốc, EU lo tái thiết kinh tế). Xét theo lý thuyết giải quyết xung đột, đây là kiểu dàn xếp thực dụng: không bên nào thắng hoàn toàn, cũng không bên nào thua hoàn toàn – một công thức để hòa bình có cơ hội tồn tại.
Tuy nhiên, mặc dù có nhiều điểm tích cực, khả năng thực thi kế hoạch hòa bình EU vẫn bị nhiều chuyên gia đặt dấu hỏi. Thách thức lớn nhất là liệu Nga có thực sự tuân thủ thỏa thuận hay không. Như phân tích ở trên, một bộ phận lớn người dân và lãnh đạo Ukraine hoài nghi thiện chí của Điện Kremlin – họ cho rằng Moscow sẽ tái vũ trang và tấn công lại ngay khi có cơ hội. Các đảm bảo trong kế hoạch EU (Mỹ bảo trợ, trừng phạt tự động nếu Nga vi phạm) là nỗ lực nhằm ràng buộc, nhưng hiệu lực đến đâu thì còn tùy vào diễn biến tương lai. Timothy Ash (Chatham House) nhận định: “Thỏa thuận này về cơ bản cho Nga mọi thứ họ muốn còn Ukraine chẳng được bao nhiêu”[iii]. Ông dự báo nếu ký, Ukraine sẽ rơi vào bất ổn và không bền vững. Quan điểm này, dù hơi cực đoan, chỉ ra rằng một nền hòa bình quá thiên lệch khó lâu dài. Nếu người Ukraine cảm thấy bất công, họ có thể phá bỏ thỏa thuận khi có cơ hội (ví dụ 10 năm nữa, khi tương quan sức mạnh thay đổi). Tương tự, với trường hợp của Nga. Chuyên gia người Nga Dmitri Trenin (Carnegie Moscow) bình luận: “Kế hoạch này chỉ có ý nghĩa nếu Nga thật sự từ bỏ mục tiêu xâm lấn Ukraine. Nếu không, nó chỉ là hiệp ước đình chiến để chuẩn bị chiến tranh lần sau”[iv]. Do đó, lòng tin là thứ thiếu nhất, và kế hoạch dù chi tiết đến đâu cũng khó bù đắp nếu các bên vẫn chưa lấy lại được lòng tin.
Một điểm trừ khác là tính tường minh của các điều khoản. Mặc dù liệt kê 28 điểm, nhưng một số điểm trong kế hoạch EU (và cả Mỹ) vẫn còn mơ hồ, dễ diễn giải khác nhau. Chẳng hạn, “đối thoại Nga-NATO về mối quan ngại an ninh” (Điểm 4) nghe rất tốt nhưng không rõ kết quả ra sao, nếu không đồng ý thì có ảnh hưởng thỏa thuận không? Hay điều “Ukraine sẽ nhận được đảm bảo an ninh vững chắc” – kế hoạch EU đã chi tiết hơn nhưng vẫn để ngỏ “Mỹ được bồi hoàn cho đảm bảo” (Điểm 10a) – điều này nghĩa là gì? Ukraine sẽ phải trả tiền, hay nhượng một quyền lợi kinh tế nào cho Mỹ? Điều khoản này có thể gây tranh cãi nội bộ (phe đối lập Ukraine sẽ nói Zelenskiy “bán nước” cho Mỹ). Rồi “bảo vệ người nói tiếng Nga” – chuẩn EU nghĩa là sao? Nga có thể cố tình diễn giải Ukraine không làm đủ để kiếm cớ gây áp lực. Độ mơ hồ của văn bản có thể giúp ký kết dễ hơn, nhưng lại gây khó khi thực thi. Kinh nghiệm nhiều hòa ước cho thấy chỗ nào không rõ ràng sẽ thành nguồn cơn mâu thuẫn sau này.
Xét về tính khả thi chính trị: Chính quyền Zelenskiy dù muốn, cũng rất khó nuốt trôi thỏa thuận trước dân chúng. Các cuộc thăm dò đã chỉ rõ đại bộ phận dân Ukraine phản đối. Để thỏa thuận được chấp nhận, có lẽ sẽ phải tổ chức trưng cầu dân ý theo quy định Hiến pháp (vì liên quan tới nhượng bộ lãnh thổ). Kết quả trưng cầu khá bấp bênh trong bối cảnh dư luận sục sôi. Nếu chính phủ bỏ qua trưng cầu, tính chính danh hòa ước sẽ thấp, dễ bị lực lượng chống đối lợi dụng.
Về tác động tới cuộc xung đột, kế hoạch EU nếu thành công sẽ tạo bước ngoặt lịch sử, đưa cuộc chiến Ukraine sang giai đoạn mới – chấm dứt xung đột vũ trang quy ước, chuyển sang đấu tranh chính trị-ngoại giao. Chiến tuyến sẽ ngừng dịch chuyển bằng súng đạn, thay vào đó kết quả của các bên phụ thuộc vào bàn đàm phán và sức mạnh kinh tế, xây dựng quốc gia. Ukraine nếu khôn khéo và được phương Tây hậu thuẫn, có thể tận dụng thời bình để tăng cường nội lực (cải cách, phát triển kinh tế, nâng cao tiêu chuẩn quân đội dù số lượng giảm) và củng cố quan hệ quốc tế (tiến trình EU, hiệp ước an ninh Mỹ). Trong khi đó, Nga sẽ cố gắng hồi phục kinh tế nhờ dỡ trừng phạt, nhưng cũng chịu ràng buộc: họ phải đền bù nếu muốn tài sản được mở khóa, phải nhẹ tay với Ukraine nếu không muốn bị trừng phạt trở lại. Nếu tất cả đi theo đúng kế hoạch, vài năm tới thế giới có thể thấy một Ukraine tuy mất một phần lãnh thổ nhưng độc lập, được bảo vệ và hướng Tây, đối đầu một Nga kiệt quệ phần nào nhưng giữ được một phần thắng lợi, đang dần tái hòa nhập. Xung đột khi đó có lẽ không còn nóng, mà chuyển thành cuộc cạnh tranh âm thầm: Ukraine hy vọng dài hạn sẽ mạnh hơn và lấy lại vùng mất bằng thương lượng quốc tế hoặc cải tổ bên trong Nga (ví dụ nếu chế độ Putin yếu đi, họ đòi lại được), còn Nga thì sẽ tìm cách ảnh hưởng chính trị ở Kiev (bằng tiền, văn hóa) để đạt mục tiêu “phần còn lại của Ukraine thân thiện với Nga”.
Tác động khác là tiền lệ quốc tế mà thỏa thuận này tạo ra. Một số nhà phân tích lo ngại việc để Nga giữ lãnh thổ chiếm đóng tạo tiền lệ xấu khắp thế giới: các nước lớn có thể nghĩ có thể dùng vũ lực rồi thương thuyết để hưởng phần thắng. Trung Quốc có thể nhìn vào mà có thêm động lực với Đài Loan, hay các điểm nóng khác (Ấn Độ – Pakistan, Trung Đông) cũng bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, mặt khác, có quan điểm thực dụng cho rằng “phải nhìn nhận thực tế: Nga đã chiếm đất và rất khó buộc họ trả lại bằng vũ lực, nên thỏa thuận này chỉ công nhận hiện thực”. Nếu kèm điều kiện thích đáng (như đền bù, cam kết pháp lý) thì có thể chấp nhận được, giống như Hiệp ước hòa bình Ai Cập-Israel 1979 chấp nhận một số thay đổi biên giới nhưng mang lại ổn định lâu dài. Thành bại của kế hoạch EU sẽ ảnh hưởng tới uy tín luật pháp quốc tế.
Ngoài ra, tác động đối với Nga và Ukraine về nội bộ cũng đáng chú ý. Ở Ukraine, một hòa bình kiểu này có thể dẫn tới tái cấu trúc chính trị: lực lượng thân phương Tây ôn hòa (như Zelenskiy) có thể suy yếu, nhường chỗ cho những người dân tộc chủ nghĩa hơn hoặc cũng có thể là những người thực dụng hòa bình hơn (tùy diễn biến). Ở Nga, ông Putin có thể tuyên bố chiến thắng và củng cố quyền lực ngắn hạn, nhưng về dài, việc dừng lại khi chưa chinh phục hoàn toàn có thể làm nhóm diều hâu bất mãn, và kinh tế Nga dù được gỡ một phần trừng phạt cũng bị suy yếu bởi phí tổn chiến tranh và đền bù. Một nước Nga suy yếu nhưng không bị hạ nhục có lẽ ít nguy hiểm hơn cho châu Âu so với một nước Nga tuyệt vọng còn nguyên tham vọng.
Tổng kết, kế hoạch hòa bình của EU là một nỗ lực đáng ghi nhận nhằm cân bằng các yêu cầu xung đột và tìm lối thoát cho cuộc chiến Ukraine. Nó cho thấy vai trò nổi bật của châu Âu trong việc kiến tạo hòa bình ngay tại lục địa mình, đồng thời cho thấy sự linh hoạt của Mỹ khi lắng nghe đồng minh. Kế hoạch này có tính khả thi tương đối nếu các lãnh đạo chủ chốt (Trump, Putin, Zelenskiy) đồng thuận và giữ cam kết. Song, thực thi thành công lại là câu chuyện dài hơi, phụ thuộc vào thiện chí và sự trung thành với thỏa thuận của các bên. Cơ hội để chấm dứt gần 4 năm đổ máu đang ở trước mắt, nhưng rủi ro sụp đổ cũng không thể xem nhẹ. Dù sao, trong tình thế Ukraine đang nguy khốn và phương Tây cạn dần kiên nhẫn, đây có lẽ là phương án khả dĩ nhất để cứu vãn tình hình. Một hòa bình không hoàn hảo nhưng có thể chấp nhận, như nhiều học giả nhận định, vẫn tốt hơn chiến tranh leo thang vô định. Như lời Tổng thống Pháp Macron: “Tất cả mọi người đều muốn hòa bình – trừ Nga, kẻ vẫn ngoan cố ném bom Ukraine. Do đó, hỗ trợ Ukraine là yếu tố quyết định”. Kế hoạch EU chính là nỗ lực để biến sự hỗ trợ đó thành một giải pháp chính trị cuối cùng, với hy vọng rằng nó sẽ đặt nền móng cho hòa bình lâu dài trên mảnh đất Ukraine đau thương./.
Hết
Tác giả: Phạm Quang Phúc
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của Nghiên cứu Chiến lược. Mọi trao đổi học thuật và các vấn đề khác, quý độc giả có thể liên hệ với ban biên tập qua địa chỉ mail: [email protected]
Tài liệu tham khảo
[i] Mark Episkopos, Marcus Stanley (2025), “Ukraine war Critics of Ukraine peace deal must answer: What’s the alternative?”, Responsible State Craft, https://responsiblestatecraft.org/28-point-peace-plan-ukraine/
[ii] Ivo H. Daalder (2025), “A Better Way for Europe to Guarantee Ukraine’s Security How European Forces—and NATO Resources—Can Make the Country Stronger” , Foreign Affairs, https://www.foreignaffairs.com/ukraine/better-way-europe-guarantee-ukraines-security
[iii] Timothy Ash (2025), “OPINION: Ukraine – Reviewing the Peace Plan”, Kyiv Post, https://www.kyivpost.com/opinion/64707
[iv] “Тренин: не думаю, что Россия готова пойти на перемирие, которое лишь поможет Украине” (2025), Verelq, https://verelq.am/ru/node/130314






















