Kể từ đầu năm nay, Hoa Kỳ “cực kỳ bận rộn” ở Biển Đông và các khu vực lân cận. Họ đã đạt được thỏa thuận với Philippines về việc hiện diện tại 4 căn cứ quân sự mới, tái khởi động tuần tra chung Mỹ-Philippines trên Biển Đông, tổ chức cuộc gặp “2+2” giữa bộ trưởng quốc phòng và ngoại trưởng để thống nhất lộ trình hỗ trợ an ninh của Mỹ cho Philippines trong 5 đến 10 năm tới. Bên cạnh đó, cuộc tập trận quân sự chung “vai kề vai” giữa Hoa Kỳ với Philippines và chuyến thăm đầu tiên của Blinken tới Việt Nam đã diễn ra…
Chuỗi hoạt động nói trên không khỏi gợi lại nhiều ký ức khác nhau về quan hệ Mỹ – Philippines trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, và không khỏi lo lắng: Liệu Biển Đông có trở thành cội nguồn của cái gọi là “Chiến tranh Lạnh mới” hay không?
Tâm lý Chiến tranh Lạnh chi phối chiến lược của Mỹ ở Biển Đông
Có bốn hiện tượng đủ để cho thấy chiến lược hiện tại của Mỹ ở Biển Đông hoàn toàn dựa trên tâm lý Chiến tranh Lạnh.
Đầu tiên, bù đắp những thiếu sót của Quần đảo Philippines và xây dựng lại “chuỗi đảo thứ nhất (Đài Loan, Okinawa, Philippines)”.
Cái gọi là “chiến lược chuỗi đảo” chính là “bản chất” của chiến lược châu Á-Thái Bình Dương của Mỹ thời Chiến tranh Lạnh. Từ quần đảo Aleut, quần đảo Nhật Bản và quần đảo Ryukyu đến đảo Đài Loan, đảo Luzon, đảo Mindoro, đảo Palawan và quần đảo Sunda lớn ở Philippines, sự nối liền các đảo về mặt địa lý tạo thành tuyến phòng thủ đầu tiên nhằm ngăn chặn sự lan rộng ảnh hưởng của các đối thủ, đồng thời là điểm tựa quan trọng để Mỹ thực hiện “chiến lược chung” và kiềm chế đối thủ về mặt ngoại giao.
Từ khi kết thúc thời gian đồn trú kéo dài hàng thế kỷ tại Philippines vào năm 1992 đến khi tìm cách tái đồn trú vào năm 2014, trong 20 năm, Mỹ đã “quay đi quay lại”, thể hiện ý định tăng cường liên kết với Philippines trong chiến lược chuỗi đảo. Đặc biệt trong bối cảnh xung đột giữa Nga và Ukraine cũng như sự cạnh tranh chiến lược ngày càng gay gắt giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, yêu cầu của Hoa Kỳ đối với chiến lược chuỗi đảo đã tăng trở lại. Tuy nhiên, sức mạnh quân sự của Philippines và quân đội Mỹ ở Philippines kém xa Nhật Bản ở Đông Bắc Á. Họ không thể đáp ứng được tâm lý kỳ vọng của quân đội Mỹ trong việc kiềm chế Trung Quốc.
Bốn căn cứ quân sự mới của Mỹ ở Philippines đều được đặt ở những vị trí nhạy cảm đặc biệt, nhất là ba căn cứ ở phía bắc Philippines tạo thế bổ trợ cho nhau cùng với đảo Đài Loan và quần đảo Ryukyu, điều này càng cho thấy Mỹ đang tập trung vào việc xây dựng lại chuỗi đảo đầu tiên bằng cách ra sức tăng cường cơ sở quân sự tại Philippines và nâng cấp khả năng phòng thủ của mình.
Thứ hai, hàn gắn quan hệ Mỹ-Philippines, tiếp tục đà hợp tác quân sự và an ninh Việt Nam-Mỹ, nâng cao quan hệ song phương Mỹ với Indonesia và Malaysia, xác định sự đồn trú là mục tiêu hướng đến của ngoại giao ở Đông Nam Á
Một báo cáo do Viện Hudson của Mỹ công bố vào tháng 12/2019 cho biết, số lượng đồng minh và đối tác cùng chí hướng đóng vai trò quyết định trong quá trình cạnh tranh địa chính trị, trong Thế chiến II, là 32:4 và 54:8. Trong Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ có 54 đồng minh và đối tác, trong khi Liên Xô chỉ có 26.
So sánh đơn giản và cách suy nghĩ thô thiển này cho thấy cộng đồng chiến lược Hoa Kỳ đang sử dụng lịch sử của ngày hôm qua làm tài liệu tham khảo cho chiến lược cạnh tranh chống lại Trung Quốc ngày nay, trong nỗ lực xây dựng một “doanh trại” mới ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Từ chính quyền Trump đến chính quyền Biden, chính quyền Mỹ đã thay đổi lãnh đạo, nhưng không thay đổi tư duy. Kể từ khi Biden tiếp quản Nhà Trắng vào năm 2021, bản thân Tổng thống và Phó Tổng thống Harris, Bộ trưởng Quốc phòng Austin, Ngoại trưởng Blinken đã thay phiên nhau hàn gắn quan hệ Mỹ-Philippines, khởi động lại đối thoại chiến lược Mỹ-Indonesia và tiếp tục tích cực hợp tác quân sự – an ninh song phương với Việt Nam và Malaysia, cũng như việc thiết lập liên minh Mỹ-Anh-Úc, đề xuất Kế hoạch Đối tác Nhận thức Tình hình Khu vực Biển Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, và thiết lập khuôn khổ đối thoại an ninh Mỹ-Nhật Bản-Philippines, v.v., việc xác định chiến lược đồn trú ở Đông Nam Á thậm chí còn tồi tệ hơn chính quyền Trump.
Thứ ba, nâng cấp các lực lượng quân sự truyền thống, triển khai lực lượng chiến lược và thực hiện các vùng xám, với cách tiếp cận ba mũi nhọn nhằm xây dựng lại ưu thế quân sự tuyệt đối của quân đội Mỹ trong khu vực mà trung tâm là Biển Đông, phía Bắc kết nối với Biển Hoa Đông, phía Tây kết nối với Nam Thái Bình Dương.
Cộng đồng chiến lược Hoa Kỳ đã tranh luận về cái gọi là “thuyết suy giảm của Hoa Kỳ” và “thuyết về mối đe dọa của Trung Quốc” từ góc độ quân sự kể từ đầu thế kỷ này. Lợi thế “bất đối xứng” được hình thành từ sự phát triển của lực lượng không quân, đặc biệt là lực lượng tên lửa đang trở nên bấp bênh và tuyến phòng thủ của chuỗi đảo cũng đang đối mặt với nguy cơ bị chọc thủng.
Dựa trên cơ sở này, cộng đồng chiến lược của Mỹ dự kiến thiết lập lại cấu trúc lực lượng ở châu Á-Thái Bình Dương, bao gồm phát triển sức mạnh không quân tầm xa do máy bay ném bom tàng hình tầm xa chiếm ưu thế, dỡ bỏ các hạn chế của Hiệp ước INF để triển khai tên lửa tầm ngắn và tầm trung với tầm bắn 500 – 5.500 km ở châu Á-Thái Bình Dương, đồng thời tập trung triển khai lực lượng thủy quân lục chiến và các lực lượng tác chiến đổ bộ, v.v. Có dấu hiệu cho thấy chính quyền Biden đang tăng tốc điều chỉnh theo tầm nhìn của cộng đồng chiến lược Mỹ. Họ bắt đầu triển khai “Kế hoạch răn đe Thái Bình Dương” bao gồm triển khai lực lượng tên lửa tầm ngắn và tầm trung, trong đó nêu bật việc sử dụng nhóm cảnh báo đổ bộ và lực lượng thủy quân lục chiến ở Biển Đông.
Quân đội Hoa Kỳ tìm cách tăng cường các căn cứ quân sự ở Philippines chính xác là để chuẩn bị cho việc điều chỉnh cơ cấu lực lượng của mình. Với việc bổ sung thêm 4 căn cứ mới, số lượng căn cứ không quân của Mỹ tại quần đảo Philippine sẽ lên tới 5 căn cứ, trong đó đảo Balabac mới được bổ sung sẽ trở thành căn cứ toàn diện của quân đội Mỹ, Santa Ana (Camilo Osias) nằm ở tỉnh Cagayan phía bắc Luzon, là một trong số ít căn cứ hải quân của Mỹ ở Biển Đông. Đồng thời, một số căn cứ này đã tạo khả năng cho Mỹ triển khai tên lửa tầm ngắn và tầm trung xung quanh Biển Đông. Cuộc tập trận chung Mỹ-Philippines “Vai kề vai” năm nay là lần hiếm hoi Mỹ triển khai hệ thống tên lửa phòng không “Patriot” và hệ thống phóng tên lửa đa năng “Hippocampus” (HIMARS) là một tín hiệu mạnh mẽ.
Ngoài ra, cuộc gặp “2+2” Mỹ-Philippines vào năm 2023 đã xác nhận hai nước đang thảo luận về việc khởi động lại các chuyến tuần tra chung ở Biển Đông, Nhật Bản và Australia cũng sẽ được mời tham gia. Ngoài ra, vào tháng 5 năm 2022, Hoa Kỳ đã đề xuất “Chương trình Đối tác Nâng cao Nhận thức Hàng hải Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương” và triển khai thường xuyên tàu của lực lượng bảo vệ bờ biển ở Đông Nam Á và Châu Đại Dương. “Chiến lược vùng xám” của Hoa Kỳ ở Biển Đông chủ yếu tập trung vào sự hiện diện thường xuyên của lực lượng bảo vệ bờ biển đã bước vào giai đoạn thực chất.
Thứ tư, mở rộng quy mô tập trận chung, tăng tần suất tập trận, duy trì mật độ hoạt động cao, khả năng răn đe chiến lược của quân đội Mỹ ở Biển Đông kết hợp với mô phỏng chiến thuật và chuẩn bị chiến tranh.
Số lượng các cuộc tập trận quân sự do quân đội Hoa Kỳ tiến hành ở Biển Đông đã tăng lên hàng năm và quy mô không ngừng mở rộng. Theo thống kê, số cuộc tập trận quân sự của Mỹ ở Biển Đông và các vùng biển xung quanh đã tăng từ 19 cuộc năm 2016, 29 cuộc năm 2017, 33 cuộc năm 2020 lên 48 cuộc vào năm 2022. Quy mô cuộc tập trận chung 18 ngày “Vai kề vai” đã lên tới hơn 17.000 người, lớn chưa từng có trong lịch sử.
Tương tự, các tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân, các lực lượng mặt nước và không quân của Mỹ duy trì các hoạt động tiếp cận với cường độ cao ở Biển Đông. Hoạt động của tàu ngầm hạt nhân và đội hình tàu sân bay ở Biển Đông đã đạt tần suất trung bình một lần mỗi tháng. Các hoạt động của hàng không mẫu hạm và tàu mặt nước duy trì trung bình 10 phi vụ và 5,5 tàu mỗi ngày.
Hành động của quân đội Mỹ ở Biển Đông không chỉ phô trương lực lượng, thị uy răn đe mà còn mang ý đồ diễn tập chiến thuật, xây dựng trận địa. Đặc biệt, các địa điểm của cuộc tập trận chung “Vai kề vai” đã được chọn ở Quần đảo Batan bảo vệ eo biển Bashi, phần phía bắc của đảo Luzon gần eo biển Đài Loan, tỉnh Palawan đối diện với quần đảo Trường Sa (của Việt Nam) và tỉnh Zambales đối diện với Hoàng Nham (cách gọi khác là bãi cạn Scarborough). Ý định nhằm kiểm tra phản ứng ngoại giao và quân sự của Trung Quốc, tiến hành xây dựng chiến trường giả định bao trùm eo biển phía Nam Đài Loan và Biển Đông, cũng như ý định phối hợp tập trận chiến thuật của Mỹ, Philippines, Nhật Bản, Australia đã lộ rõ.
Các chủ đề của cuộc tập trận này bao gồm an ninh hàng hải, nhiệm vụ đổ bộ, bắn đạn thật, mô phỏng một cuộc chiến thực tế toàn diện, quy mô lớn trên biển.
Hoa Kỳ đang thiết lập lại cấu trúc địa chính trị của Biển Đông
Trong một thời gian dài sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, khu vực Biển Đông duy trì mô hình cùng tồn tại của hai cấu trúc địa chính trị. Tuy nhiên, dựa vào Hiệp ước phòng thủ chung Mỹ-Philippines, Hiệp định thăm viếng năm 1998, cùng với Hiệp định hỗ trợ phòng thủ chung Mỹ-Thái Lan và Bản ghi nhớ Mỹ-Singapore 1990, Mỹ vẫn duy trì khả năng ảnh hưởng mạnh mẽ đến trật tự an ninh ở Đông Nam Á. Đồng thời, sau Chiến tranh Lạnh, Đông Nam Á đã từng bước hình thành một cấu trúc an ninh lấy ASEAN làm trung tâm.
Nhưng nhìn chung, với việc Mỹ rút quân khỏi Philippines, Thái Lan và chuyển trọng tâm chiến lược ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương sang Đông Bắc Á, cấu trúc an ninh do ASEAN dẫn dắt có ưu thế hơn. Tiến trình hội nhập chính trị và an ninh ở Đông Nam Á đã được đưa vào chương trình nghị sự và từng bước được thúc đẩy. Sự tin tưởng lẫn nhau về chính trị và hợp tác an ninh giữa Trung Quốc và các nước ASEAN cũng được cải thiện đáng kể.
Cốt lõi của chính sách “trở lại châu Á-Thái Bình Dương” và “tái cân bằng châu Á-Thái Bình Dương” do chính quyền Obama đề xuất năm 2009 là “trở lại Đông Nam Á”. Vì vậy, mặc dù Mỹ vẫn tuyên bố ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN, nhưng với việc dần nối lại triển khai quân sự và đầu tư ngoại giao ở Đông Nam Á, chính sách “tái cân bằng châu Á-Thái Bình Dương” và chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương chắc chắn sẽ khiến vị thế trung tâm của ASEAN trong trật tự an ninh tại khu vực này bị ảnh hưởng. Lần này, chính quyền Biden đang theo đuổi chiến lược “đa phương hẹp” và âm mưu bành trướng quân sự ở Biển Đông. Nó không chỉ tác động đến vai trò trung tâm của ASEAN mà còn đặt cấu trúc địa chính trị của Biển Đông đứng trước bờ vực tái thiết lập, thể hiện ở:
Cấu trúc an ninh khu vực theo hướng hội nhập đã dần bị thay đổi. Cấu trúc an ninh khu vực do ASEAN dẫn dắt có ba hướng chính: tiến hành tham vấn về các vấn đề an ninh khu vực, từng bước thúc đẩy hợp tác an ninh quân sự và duy trì vai trò trung tâm của ASEAN. Nhưng “chủ nghĩa đa phương” của Hoa Kỳ là độc đoán và mang tính đối đầu. Cụ thể, Hoa Kỳ coi Trung Quốc là mục tiêu cạnh tranh, tham vọng “thu phục” các nước ASEAN và các nước Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương khác như Nhật Bản, Ấn Độ và Úc, đồng thời thiết lập các “cơ chế hợp tác an ninh” khác nhau tùy theo các vấn đề khác nhau như tranh chấp Biển Đông, được thể hiện thông qua cả “liên minh vô hình” và “liên minh quân sự”.. Một mặt, điều này đã làm xáo trộn, cản trở tiến trình “hội nhập” an ninh chính trị khu vực, quan hệ an ninh giữa một số nước cũng chuyển từ tham vấn, đối thoại sang cạnh tranh, thậm chí đối đầu; một cuộc đua với kẻ thù được tưởng tượng ra bởi Mỹ.
Trong cấu trúc an ninh chuẩn mực, “xác định lợi ích an ninh bằng quyền lực” đã thay thế cho “an ninh hợp tác”. Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á là nền tảng cơ bản của cấu trúc an ninh khu vực do ASEAN lãnh đạo, các chuẩn mực an ninh được thiết lập bởi nó có thể được tóm tắt trong ba điểm: Hòa hợp với nhau trong tình hữu nghị, duy trì đối thoại và giải quyết tranh chấp một cách hòa bình, nghĩa là thúc đẩy an ninh chung thông qua hợp tác, về cơ bản là sự phát triển của khái niệm an ninh tập thể.
Tuy nhiên, Mỹ vẫn tự tin cho rằng trật tự bá quyền là sự đảm bảo cho ổn định thế giới và an ninh toàn cầu, đồng thời là lựa chọn tốt nhất cho cấu trúc an ninh ở khu vực Biển Đông. Trong lời nói đầu của “Chiến lược An ninh Quốc gia” được công bố vào tháng 10 năm 2022, Biden tuyên bố rằng nhu cầu về sự lãnh đạo của Hoa Kỳ trên khắp thế giới đang lớn hơn bao giờ hết và không quốc gia nào có nhiều khả năng lãnh đạo hơn Hoa Kỳ. Chiến lược Quốc phòng năm 2022 của Hoa Kỳ chỉ ra thêm rằng trước những thách thức từ Trung Quốc, Hoa Kỳ sẽ xây dựng lợi thế sức mạnh lâu dài ở khu vực Biển Đông bằng cách nâng cấp vũ khí, tăng cường và tích hợp khả năng của các đồng minh và đối tác trong “thập kỷ quan trọng” tiếp theo.
Không khó để nhận thấy, điều mà Mỹ theo đuổi chính là khái niệm “quyền lực tối cao” cũng như“quyết định an ninh và lợi ích quốc gia bằng sức mạnh”. Hoa Kỳ cho rằng các yếu tố nhận thức về sức mạnh bao gồm sức mạnh quân sự, khả năng răn đe và ảnh hưởng đối với các đối thủ. Về bản chất, “nhận thức về an ninh” của Washington dựa trên “sự bất an” của các quốc gia khác, đây là một loại khái niệm an ninh đơn phương. Cụ thể, ý định ban đầu của Hoa Kỳ khi xây dựng 9 căn cứ quân sự ở Philippines là nhằm tiến hành hoạt động trinh sát áp sát và giám sát thời gian thực hiệu quả hơn đối với Trung Quốc ở các vùng biển gần và phía trên các đảo, rạn san hô ở Biển Đông, eo biển Bashi và phần phía nam của đảo Đài Loan. Nó chính là hiện thân của “khái niệm an ninh” này.
Về các ưu tiên an ninh khu vực, “cạnh tranh và đối đầu dựa trên lợi thế sức mạnh” đã trở thành chủ đề hàng đầu. “Cạnh tranh, đối đầu” hay “đối thoại và hợp tác” là đề tài muôn thuở trong quan hệ giữa các quốc gia, đồng thời cũng là sợi chỉ xuyên suốt lịch sử quan hệ quốc tế. Trải qua đau thương của Chiến tranh thế giới thứ hai và bóng đen của Chiến tranh Lạnh, các quốc gia ở khu vực Biển Đông đã lựa chọn con đường hòa bình, phát triển, hợp tác, cùng thịnh vượng, từng bước thiết lập trật tự an ninh giải quyết khác biệt thông qua hiệp thương, thúc đẩy tin cậy lẫn nhau thông qua hợp tác, và thực hiện an ninh chung thông qua các hệ thống quốc tế. Tuy nhiên, bị thúc đẩy bởi khái niệm theo đuổi lợi thế quyền lực và sự chồng chéo của các lợi ích đơn phương, Hoa Kỳ đã đặt cạnh tranh và đối đầu làm ưu tiên trong các vấn đề an ninh khu vực.
Mỹ đã mở rộng quân đội ở Philippines và tiến hành cuộc tập trận chung chưa từng có ở vùng biển nhạy cảm ở Biển Đông, đẩy sự đối đầu giữa Trung Quốc và Mỹ trong khu vực lên mức cao nhất kể từ khi hai bên thiết lập quan hệ ngoại giao. Nó cũng khiến nguy cơ quân đội hai nước vô tình nổ súng ở Biển Đông lên đến mức cao nhất mọi thời đại.
Điều đáng lo ngại hơn nữa là trò chơi an ninh quân sự giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ ở Biển Đông là toàn diện. Bên cạnh việc mở rộng hiện diện quân sự, Mỹ cũng đang nỗ lực tích hợp các nguồn lực sức mạnh của các đồng minh và đối tác, đẩy Nhật Bản, Australia, Ấn Độ và các nước ASEAN vào thế cạnh tranh khu vực theo nhiều cách khác nhau, đặc biệt là một số nước quanh khu vực phía Nam. Biển Đông như Philippines đang đối mặt với căng thẳng giữa Trung Quốc và Mỹ, bài toán lựa chọn như thế nào. Theo quan điểm này, chủ đề an ninh ở Biển Đông đã chuyển từ chỗ làm thế nào để thúc đẩy an ninh chung và an ninh tập thể thông qua đối thoại đa phương, sang lựa chọn hoặc “theo” một bên, hoặc tham gia chạy đua vũ trang để tự bảo vệ mình.
Mối lo tứ phương cho các quốc gia Đông Nam Á
Mối quan hệ giữa ASEAN và Hoa Kỳ rất phức tạp, một số quốc gia thành viên là đồng minh và đối tác của Hoa Kỳ, bản thân ASEAN cũng có sự cạnh tranh địa chính trị với Washington. Mặc dù Philippines, Indonesia, Singapore, Việt Nam và các quốc gia thành viên khác tạo điều kiện thuận lợi hoặc hỗ trợ cho việc “triển khai về phía trước” và “chiến lược chung” của Hoa Kỳ ở Biển Đông, nhưng điều này không có nghĩa là các nước ASEAN chấp nhận dàn xếp chiến lược mới của Hoa Kỳ. Họ lo lắng về những Thỏa thuận mới chứa đầy tâm lý Chiến tranh Lạnh.
Lo ngại 1: Các cường quốc sẽ hy sinh lợi ích của các nước Đông Nam Á như cái giá phải trả để giành chiến thắng trong cuộc cạnh tranh. Hình ảnh ẩn dụ “hai con voi đánh nhau” phản ánh sinh động nhận thức của các nước ASEAN về cuộc cạnh tranh giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, mối quan tâm hàng đầu của họ là có thể bị “giẫm chết” trong cuộc cạnh tranh giữa hai cường quốc. Do vị trí địa lý đặc biệt, ASEAN luôn là điểm đến không thể bỏ qua của các cường quốc trên thế giới, nhưng điều này cũng đồng nghĩa với việc ASEAN dễ bị kẹt giữa các cường quốc đối địch.
Hoa Kỳ sử dụng tâm lý Chiến tranh Lạnh để định hình mối quan hệ tay ba giữa Hoa Kỳ-ASEAN-Trung Quốc. Họ hy vọng rằng ASEAN có thể đoàn kết và cùng tham gia kiềm chế Trung Quốc, để ASEAN đóng vai trò hàng đầu trong chiến lược chuỗi đảo và sử dụng các tranh chấp có liên quan ở Biển Đông để định hình Philippines, Việt Nam, Malaysia, Indonesia,… như những con tốt thí để kiềm chế Trung Quốc, nhưng vấn đề là Trung Quốc và ASEAN là đối tác thương mại lớn nhất của nhau. Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long năm 2019 đã chỉ ra rằng “Các nước châu Á – Thái Bình Dương không muốn bị buộc phải lựa chọn giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc… họ không thể xa lánh Trung Quốc”. Nó thể hiện đúng suy nghĩ của các nước ASEAN.
Cũng vì lo ngại trở thành nạn nhân của sự cạnh tranh giữa các nước lớn và rút ra bài học từ lịch sử, ASEAN đã thực hiện chiến lược “cân bằng giữa các nước lớn” sau Chiến tranh Lạnh.
Lo ngại 2: Các nước Đông Nam Á khó chấp nhận trở thành “chiến trường” tranh giành quyền lực của các nước lớn. Ngay cả khi các cường quốc tính đến lợi ích của ASEAN trong cuộc cạnh tranh với nhau, hầu hết các thành viên vẫn không muốn biến Đông Nam Á thành chiến trường cạnh tranh giữa các cường quốc. Mặc dù Singapore là một đối tác quan trọng của Hoa Kỳ trong ASEAN và là một căn cứ quân sự quan trọng ở Biển Đông, nhưng những lo ngại và phản kháng của nước này đối với chiến lược mới của Hoa Kỳ là rõ ràng nhất.
Vào tháng 3 năm nay, Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long tuyên bố rằng “thế giới không thể để xảy ra xung đột giữa Trung Quốc và các nước khác trên thế giới, đặc biệt là xung đột giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ”. Đây là lần thứ hai trong vòng 5 năm, Lý Hiển Long công khai bày tỏ quan ngại về cạnh tranh Trung-Mỹ. Cựu Tổng thống Philippines Duterte gần đây đã tuyên bố đáp lại thỏa thuận căn cứ quân sự mới giữa Mỹ và Philippines rằng Philippines sẽ trở thành một tiền đồn cho các cuộc chiến tranh của Mỹ. Quan điểm này thể hiện mối quan tâm của đa số những người theo chủ nghĩa duy lý ở Philippines, đồng thời cũng thể hiện nguyện vọng của một số quốc gia thành viên ASEAN khác.
Lo ngại 3: Cấu trúc an ninh khu vực lấy ASEAN làm trung tâm đã bị phá hủy hoặc thậm chí tan rã. Duy trì “vị thế trung tâm” và cấu trúc an ninh khu vực do ASEAN dẫn dắt là mục tiêu chiến lược chung của ASEAN kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Cấu trúc an ninh khu vực lấy cơ chế đa phương làm trung tâm như Diễn đàn Khu vực ASEAN và Hội nghị Cấp cao Đông Á mặc dù có những khiếm khuyết lỏng lẻo và kém hiệu quả, nhưng vẫn là một phương tiện quan trọng để ASEAN thúc đẩy hội nhập chính trị và an ninh, duy trì sự ổn định của môi trường chiến lược xung quanh và gia tăng ảnh hưởng của tổ chức này.
So với các cơ chế hợp tác an ninh song phương và đa phương hẹp của Mỹ dựa vào các tổ chức bá quyền, vai trò của cấu trúc an ninh khu vực do ASEAN dẫn dắt không chỉ phụ thuộc vào sự điều phối và hòa giải theo “cách thức ASEAN” mà còn phụ thuộc vào sự thống nhất của các thành viên. Có hai yếu tố chính: sự ràng buộc lẫn nhau của các cường quốc và sự tự điều chỉnh, chấp nhận.
Chủ nghĩa đa phương hẹp do Hoa Kỳ đưa ra đòi hỏi Philippines, Việt Nam… phải tham gia cấu trúc an ninh do Hoa Kỳ lãnh đạo, nhưng các thành viên của tổ chức ASEAN không thể “ngồi chung hai thuyền” giữa hai cấu trúc an ninh có quan niệm, mục tiêu hoàn toàn khác nhau. Việc chỉ được chọn một bên sẽ dẫn đến nguy cơ phá bỏ liên kết an ninh của ASEAN.
Ngay cả khi có khả năng “đi với cả hai bên”, tiếng nói, khả năng phối hợp và ảnh hưởng của ASEAN đối với các vấn đề an ninh khu vực chắc chắn sẽ bị suy yếu, thậm chí bị xóa bỏ do thiếu sự thống nhất giữa các thành viên trong tổ chức.
Lo ngại 4: Biển Đông sẽ trở thành tâm điểm của xung đột giữa các nước lớn. Duy trì hòa bình và ổn định khu vực là sự đồng thuận cơ bản giữa các quốc gia thành viên ASEAN trong vấn đề Biển Đông. Mặc dù một số thành viên ASEAN có xung đột lợi ích cơ bản với Trung Quốc ở Biển Đông, họ vẫn quản lý sự khác biệt và tăng cường tin cậy lẫn nhau thông qua tham vấn về “Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông” và các cuộc họp cơ chế tham vấn song phương.
Đối với việc triển khai quân sự và những xáo trộn ngoại giao của các cường quốc lớn ngoài khu vực ở Biển Đông, các nước thành viên ASEAN có những phản ứng khác nhau, nhưng hầu hết các nước đều không muốn Biển Đông bị cai trị và hỗn loạn. Điều đặc biệt thuyết phục là trong nửa đầu năm 2020, Mỹ đã nỗ lực sử dụng vũ lực để hỗ trợ Malaysia trong cuộc đối đầu với Trung Quốc ở Biển Đông, nhưng chính phủ Malaysia đã ngay lập tức thể hiện quan điểm “bác bỏ” và nhắc lại nguyên tắc đối thoại và đàm phán để giải quyết các khác biệt trên biển giữa Trung Quốc-Malaysia.
Bố trí chiến lược hiện nay của Mỹ ở Biển Đông, nhất là dựa vào Philippines để bành trướng sức mạnh quân sự, chắc chắn sẽ có tác động tiêu cực đến tình hình an ninh khu vực. Hoa Kỳ tuyên bố có thể cung cấp hỗ trợ cho Philippines và các quốc gia có yêu sách khác trong các cuộc xung đột và đối đầu với Trung Quốc liên quan đến vấn đề Biển Đông. Những lời hứa gây hiểu lầm, kích động và khó hiểu như vậy sẽ gửi một tín hiệu nguy hiểm đến các hành động trên biển của các quốc gia có yêu sách liên quan và gây nguy hiểm cho sự phát triển tích cực của tình hình an ninh ở Biển Đông. Rõ ràng, điều này là không thể chấp nhận được đối với các nước Đông Nam Á.
Bất kể “Chiến tranh Lạnh mới” có xuất hiện hay không, bóng đen của “Chiến tranh Lạnh” vẫn bao trùm Biển Đông và thậm chí toàn bộ Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương ngày nay. Mặc dù Trung Quốc và Hoa Kỳ thường có ý định tránh xung đột trực tiếp, nhưng mâu thuẫn giữa ý chí duy trì quyền bá chủ của Hoa Kỳ và ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc luôn tồn tại.
Quyền bá chủ của Hoa Kỳ không phải là một “sản phẩm an ninh chung” thực sự. Bản chất của nó là thực hiện lợi ích của chính Washington với cái giá phải trả là an ninh của các nước khác. Các nước Đông Nam Á không có ý định quay lại Chiến tranh Lạnh và trở thành chư hầu của Hoa Kỳ. Nhưng dù vậy, Trung Quốc và các nước xung quanh Biển Đông vẫn cần cảnh giác trước “cái bẫy” địa chính trị do Mỹ giăng ra, giữ vững nguyên tắc hợp lý trước sự cưỡng ép và cám dỗ của nó, không để xung đột nội bộ khu vực biến thành khủng hoảng bên ngoài, và cùng nhau cam kết quản lý các khác biệt trên biển, thúc đẩy hòa bình thông qua các quy tắc cũng như tăng cường sự tin cậy lẫn nhau về chính trị và an ninh./.
Biên dịch: Hoàng Hải
Tác giả: Chen Xiangmiao, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Hải quân Thế giới thuộc Viện Nghiên cứu Biển Đông Quốc gia Trung Quốc.
Bài viết thể hiện quan điểm cá nhân của tác giả, không phải là quan điểm của BBT Nghiên cứu Chiến lược. Một số thuật ngữ đã được điều chỉnh phù hợp với quan điểm chủ quyền biển, đảo của Việt Nam.