Các nhà lãnh đạo Nhật Bản đã bắt đầu rút ra những bài học quan trọng từ cuộc xung đột tại Ukraine. Trong bộ ba tài liệu chiến lược được công bố vào tháng 12 năm ngoái, Tokyo đang tăng cường chi tiêu cho kho vũ khí, bảo trì, củng cố và chuẩn bị sẵn sàng cơ sở, cũng như thực hiện các khoản đầu tư mới trên tất cả các lĩnh vực. Nhưng bất chấp điều này, các quan chức Nhật Bản vẫn im lặng về việc họ đang chuẩn bị cho một cuộc xung đột ngắn hạn hay lâu dài. Điều này quan trọng bởi vì, như cuộc chiến Ukraine đã chứng minh, một cuộc đấu tranh kéo dài có thể đòi hỏi những kế hoạch khác với kế hoạch mà Nhật Bản có thể đang thực hiện.
Bất kỳ cuộc xung đột nào liên quan đến Trung Quốc và Hoa Kỳ dường như không phải là một cuộc xung đột ngắn. Để Nhật Bản có thể tham gia hiệu quả vào bất kỳ cuộc xung đột nào ở Biển Hoa Đông – ngay cả với mục tiêu phòng vệ – các lực lượng Nhật Bản nên rút ra sáu bài học quan trọng từ cuộc xung đột tại ở Ukraine: Chuẩn bị cho một cuộc xung đột kéo dài; Đảm bảo đầy đủ thế trận hậu cần; Sẵn sàng chiến đấu tích cực; Sẵn sàng cho một cuộc chiến mở rộng; Sử dụng phương tiện không người lái; Giữ vững ý chí chiến đấu. Giải quyết những vấn đề này có thể giúp Nhật Bản và liên minh chuẩn bị tốt hơn để có thể phản ứng nhanh chóng hỗ trợ các hoạt động của Hoa Kỳ.
Bài học thứ nhất: Chuẩn bị cho một cuộc xung đột kéo dài
Bước đầu tiên trong việc chuẩn bị cho một cuộc xung đột kéo dài liên quan đến việc dự trữ các vật tư quan trọng như nhiên liệu, phụ tùng, thiết bị, vật tư khí tài và vật tư y tế gần các đơn vị có nhu cầu sử dụng. Kinh nghiệm của Ukraine cũng cho thấy Nhật Bản nên ưu tiên đảm bảo các trang thiết bị và các đơn vị chiến đấu ở trạng thái sẵn sàng cao.
Có thể cho rằng bài học quan trọng nhất là đảm bảo có đủ kho dự trữ đạn dược ở những nơi có các đơn vị cứu hỏa. Giống như hành động quân sự của Nga, Trung Quốc sẽ bắt đầu bất kỳ cuộc chiến nào với số lượng máy bay, tàu chiến vượt trội so với những gì các đồng minh hiện có trong chiến trường. Điều này, cùng với kho tên lửa lớn của mình, Trung Quốc sẽ khiến toàn bộ quần đảo Nhật Bản gặp nguy hiểm. Ngoài việc đặt ưu tiên cho cả hệ thống phòng thủ thụ động và chủ động, Nhật Bản cần chú ý tầm quan trọng của việc duy trì cơ sở công nghiệp và kho dự trữ khí tài mạnh mẽ. Công bằng mà nói, Nhật Bản đã xác định tầm quan trọng của việc tăng kho dự trữ khí tài trong Chiến lược phòng thủ quốc gia năm 2022, nhưng không biết Bộ Quốc phòng và Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản đã đánh giá điều gì là đủ. Điều này đưa chúng ta trở lại với loại xung đột mà Bộ Quốc phòng đang chuẩn bị.
Việc chuẩn bị trước dự trữ cho một cuộc xung đột bùng phát trong thời gian ngắn so với một cuộc xung đột trong thời gian dài như Ukraine bao gồm các mức độ nỗ lực rất khác nhau. Ví dụ, Quân đội Hoa Kỳ đã phải đối mặt với vấn đề làm thế nào để bổ sung các kho dự trữ vũ khí đang cạn kiệt vì phải để cung cấp hỗ trợ cho quân đội Ukraine. Cuộc chiến ở Ukraine là cuộc chiến mà Mỹ đang hỗ trợ gián tiếp. Các kho dự trữ sẽ giảm nhanh hơn nhiều nếu Hoa Kỳ trực tiếp tham gia vào cuộc chiến. Đối với Nhật Bản, một phần mục tiêu hiện tại của chính phủ là lấp đầy các kho vũ khí quan trọng trong thời bình. Không biết Bộ Quốc phòng đã thực hiện những thỏa thuận gì với các nhà cung cấp vũ khí để tăng sản lượng một khi cuộc xung đột xảy ra. Với số lượng ít nhà cung cấp, liệu Nhật Bản có khả năng tăng công suất trong thời chiến? Cũng không biết liệu Nhật Bản có đang làm việc với các nhà cung cấp Hoa Kỳ để giải quyết mâu thuẫn với các đơn đặt hàng của Hoa Kỳ hay không.
Bài học thứ hai: Bảo đảm hậu cần đầy đủ
Điều này đặt ra vấn đề về cách Nhật Bản dự định có được các nguồn cung cấp quan trọng, cần thiết khi các kho dự trữ và vật tư của họ bắt đầu cạn kiệt. Một thiếu sót trong các hoạt động của Nga là hậu cần, điều này có thể do họ không lường trước được cuộc chiến bị kéo dài. Như Bộ trưởng Lục quân Hoa Kỳ Christine Wormuth lưu ý: “Quân đội Nga đã phải vật lộn với việc di chuyển thiết bị xung quanh chiến trường…[điều này cho thấy] một thiếu sót đáng chú ý và ngạc nhiên trong lĩnh vực này”. Seth Jones cung cấp thêm chi tiết, lập luận rằng: Nga không có khả năng tiếp cận với phương tiện giao thông đường sắt trong khi đường bộ bị tắc nghẽn bởi các phương tiện đường bộ, “lực lượng mặt đất của Nga đã không thể vận chuyển nhiên liệu, đạn dược, phụ tùng thay thế, các vật tư khác một cách nhanh chóng và hiệu quả tới các đơn vị được triển khai ở phía trước”. Hậu quả của việc chậm trễ trong lĩnh vực hậu cần này là trên chiến trường, các cuộc tấn công gặp trở ngại đáng kể khi đối mặt với các cuộc phản công của Ukraine.
Bất kỳ cuộc xung đột nào liên quan đến Nhật Bản sẽ ngay lập tức liên quan đến một tuyến hậu cần trải rộng trên nhiều hòn đảo cách nhau hàng trăm, đôi khi hàng ngàn dặm trên mặt nước. Vì đang chiến đấu từ lãnh thổ của mình nên Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản sẽ luôn có căn cứ, kho dự trữ và nguồn cung cấp ở gần đó – nhưng “nơi nào đó” đó có thể bị ngăn cách bởi núi non hoặc dải biển lớn. Trong thời bình, Nhật Bản có xu hướng dựa vào các dịch vụ thương mại để bổ sung cho Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản trong việc di chuyển vật tư và thiết bị. Điều này tạo ra các lỗ hổng nghiêm trọng và các vấn đề pháp lý tiềm ẩn trong thời gian chuẩn bị xảy ra khủng hoảng, chưa kể đến trong một cuộc xung đột thực sự.
Đối với trường hợp dự phòng, việc đảm bảo Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản có năng lực vận chuyển đạn dược, nhiên liệu và vật tư nhanh chóng đến nơi cần đến sẽ rất quan trọng để duy trì trong bất kỳ cuộc chiến nào. (Tác giả bài viết cho rằng, khả năng vận chuyển bằng đường thủy của quân đội Nhật Bản là yếu – chưa đủ). Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản có thể phải đối mặt với những hạn chế trong việc di chuyển nhanh chóng vật tư và binh sĩ trên khắp quần đảo một cách bền vững ở những nơi dự kiến sẽ xảy ra sự tiêu hao đáng kể. Trong khi các lựa chọn dân sự có thể bù đắp cho những thiếu hụt này, nhưng việc sử dụng chúng trong một cuộc xung đột sẽ rất hạn chế.
Bài học thứ ba: Chuẩn bị chủ động, sẵn sàng chiến đấu
Mặc dù điều quan trọng là phải tập trung vào các cách để giữ cho Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản tiếp tục chiến đấu, nhưng một câu hỏi thường được đặt ra là liệu họ có sẵn sàng chiến đấu tích cực hay không.
Không có gì lạ khi coi Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc là một gã khổng lồ quân sự đáng sợ. Tuy nhiên, năng lực quân sự của nó vẫn chưa được thử thách, với cuộc xung đột cuối cùng mà họ đã chiến đấu – và thất bại – xảy ra vào năm 1979 xâm lược Việt Nam. Tuy nhiên, ngay cả thất bại trong chiến dịch kéo dài hàng chục năm đó của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc cũng có nhiều kinh nghiệm chiến đấu hơn Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản. Trong khi Nhật Bản có nhiều thập kỷ kinh nghiệm trong việc ứng phó với thảm họa, thì kinh nghiệm liên quan đến chiến đấu tích cực chỉ giới hạn trong các cuộc tập trận. Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản được cho là không thường xuyên tiến hành các bài tập thực tế hoặc thực hành huấn luyện thực tế. Một số bài tập cần thiết cho khả năng sẵn sàng chiến đấu cao, như huấn luyện tên lửa, thậm chí không thể được thực hiện ở Nhật Bản vì những cân nhắc chính trị trong nước.
Các tuyên bố chung gần đây đã xác định “huấn luyện và diễn tập thực tế” là một lĩnh vực trọng tâm của liên minh. Người ta không biết mức độ thành công trên chiến trường của Ukraine liệu có ảnh hưởng đến nỗ lực cải thiện kỹ năng chiến đấu chiến thuật và mức độ sẵn sàng của Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản. Chẳng hạn, Nhật Bản có đang theo dõi cuộc chiến từ đó tìm cách cải thiện các hoạt động vũ trang của mình hay không? Về phần mình, Quân đội Hoa Kỳ đã nói về tầm quan trọng của các cuộc tập trận huấn luyện chung mang lại kinh nghiệm trong các cuộc diễn tập quy mô lớn. Với các thiết bị tinh vi của Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản và kế hoạch mua sắm nhiều hơn trong những năm tới, Nhật Bản càng có thể cải thiện chất lượng, đào tạo thực tế để xây dựng năng lực, đào tạo các nhà lãnh đạo và hạ sĩ quan cấp dưới để đưa ra quyết định trên chiến trường để có thể nắm bắt thế chủ động, đồng thời sẵn sàng sử dụng thiết bị tinh vi của mình một cách hiệu quả nhất để chống lại một kẻ thù vượt trội về số lượng. Kế hoạch thành lập trụ sở chung thường trực cũng cho thấy mức độ nghiêm túc hơn về sự liên kết, điều này có thể mang lại lợi ích khi chống lại một lực lượng Trung Quốc lớn hơn nhiều.
Bài học thứ tư: Sẵn sàng cho cuộc chiến mở rộng
Ngoài việc sẵn sàng chiến đấu, một câu hỏi cơ bản hơn đối với giới lãnh đạo chính trị Nhật Bản là họ thấy mình đóng vai trò gì trong một tình huống bất ngờ ở Đài Loan. Trong bối cảnh này, các nhà hoạch định nên bắt đầu suy nghĩ sáng tạo về tất cả các phương án khác nhau mà Nhật Bản có thể hỗ trợ Đài Loan duy trì khả năng chiến đấu.
Một trong những hình thức hợp tác quan trọng nhất mang lại lợi ích cho Ukraine là việc phương Tây tiếp tế vũ khí – khí tài. Mặc dù điều này đã chậm lại khi chiến tranh kéo dài, nhưng có thời điểm Mỹ và NATO đã cung cấp cho Ukraine hơn 17.000 vũ khí chống tăng trong vòng chưa đầy một tuần. Nhật Bản đã giúp Ukraine nguồn cung cấp, nhưng không phải trang thiết bị chiến đấu. Nếu việc duy trì một chính phủ khả thi ở Đài Bắc là một lợi ích quan trọng đối với Tokyo, Nhật Bản cũng sẽ sẵn sàng hỗ trợ Đài Loan theo cách tương tự. Nhật Bản sẽ tiếp tế Đài Loan bằng vũ khí và đạn dược trong một tình huống tích cực? Không thể biết liệu một thủ tướng tương lai của Nhật Bản có thấy điều đó quá khiêu khích hay không. Nếu đúng như vậy, có lẽ sự hỗ trợ phi động lực (một thuật ngữ dùng để chỉ những hình thức đấu tranh không dựa trên sức mạnh vật chất hay vũ khí truyền thống, mà dựa trên các yếu tố như tâm lý, thông tin, điện tử, mạng lưới hay năng lượng) bằng khả năng vận tải của C-130 và C-2 trong việc tiếp tế vật liệu phi chiến đấu vào Đài Loan sẽ thực tế hơn. Nếu các chuyến bay gần hoặc qua Đài Loan gặp khó khăn về mặt chính trị hoặc hoạt động trong một môi trường tranh chấp, các lực lượng Nhật Bản ít nhất có thể sử dụng một số máy bay tiếp dầu trên không KC-46 của họ để giúp duy trì các nỗ lực tiếp nhiên liệu của các lực lượng liên minh bay từ Guam hoặc Alaska. Loại hỗ trợ phi động lực, hậu phương trên các vùng biển quốc tế này sẽ ít gây những ảnh hưởng về mặt chính trị và hoạt động.
Về các hoạt động chiến đấu, một cuộc chiến giành Đài Loan sẽ bao gồm nhiều nhiệm vụ. Nếu Tokyo tham gia vào cuộc chiến, câu hỏi lớn sẽ là liệu họ có giới hạn sự hỗ trợ của mình trong việc phòng thủ Nhật Bản hay họ sẽ mở rộng sự hỗ trợ của mình để bảo vệ các lực lượng Hoa Kỳ trong và xung quanh Nhật Bản hay không. Nếu nó áp dụng cách tiếp cận thứ hai, phù hợp với mục đích đã nêu trong việc diễn giải lại Điều 9 Hiến Pháp Nhật Bản năm 2014 để cho phép tự vệ tập thể, thì câu hỏi sẽ chuyển sang loại nhiệm vụ mà nó sẽ tham gia. Hướng dẫn phòng thủ chung năm 2015 đã cung cấp câu trả lời, như tài liệu đó đưa ra một lộ trình chung về các vai trò và nhiệm vụ dự kiến mà mỗi đồng minh sẽ tham gia. Nhưng với việc Nhật Bản đã có lập trường chủ động hơn, các vai trò và nhiệm vụ dự kiến cho Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản sẽ phụ thuộc hoàn toàn vào việc ai là người đứng đầu Kantei (Văn phòng Thủ tướng Nhật Bản) vào thời điểm đó.
Nhưng liệu Hoa Kỳ có thể chỉ dựa vào các nhiệm vụ hỗ trợ hậu phương, phi chiến đấu quan trọng như tình báo, giám sát, trinh sát, tiếp nhiên liệu, bảo trì và tìm kiếm cứu nạn không? Còn các hoạt động hàng không hoặc hàng hải liên quan đến các hoạt động chiến đấu bên ngoài vùng biển và không phận của Nhật Bản, bao gồm tìm kiếm, cứu nạn chiến đấu, để hỗ trợ các lực lượng đồng minh thì sao? Đồng thời, việc bảo vệ dòng thiết bị quan trọng của Hoa Kỳ vào chiến trường và hướng tới điểm cần thiết phía trước, ngay cả khi điều đó bao gồm cả Đài Loan sẽ như thế nào? Mặc dù Hoa Kỳ chắc chắn muốn Nhật Bản đưa ra một phản ứng mạnh mẽ, nhưng điều đó không nên khiến Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản phải trả giá bằng việc đánh đổi trách nhiệm cốt lõi của họ là bảo vệ Nhật Bản.
Có thể cho rằng một trong những ẩn số lớn nhất là cách Nhật Bản dự định sử dụng các hỏa lực chính xác tầm xa của mình. Hầu hết các nhà phân tích an ninh và hoạch định quốc phòng phương Tây coi những khả năng như vậy về bản chất là tấn công, nhưng cuộc tranh luận ở Nhật Bản lại tập trung vào cách chúng có thể được sử dụng cho mục đích tự vệ. Phần lớn cuộc tranh luận này tập trung vào việc xác định mục tiêu vào các sân bay hoặc cơ sở quân sự cố định của đối phương. Bên cạnh thực tế là con số này lên tới hàng nghìn và các sân bay có thể được sửa chữa tương đối nhanh chóng, một câu hỏi rộng hơn là các cuộc tấn công như vậy sẽ phục vụ mục tiêu nhiệm vụ gì.
Vì chỉ riêng các cuộc tấn công vào các sân bay sẽ có rất ít tác dụng trong việc ngăn chặn sự xâm lược của Trung Quốc, nên một bài học quan trọng mà các chỉ huy Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản có thể học được từ Ukraine là sự cần thiết phải tấn công chính xác tầm xa để đánh chìm tàu và phá hủy các đoàn xe tiếp tế, đánh trúng các sở chỉ huy hoặc tàu chỉ huy, phá hủy các nút hậu cần, khí tài quan trọng. Nếu Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản phát triển các khái niệm về hoạt động mở rộng việc sử dụng chúng cho các mục tiêu này, thì sẽ có nhiều khả năng làm phức tạp thêm các hoạt động của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Một ngày nào đó, Nhật Bản có thể có được một cấu trúc chuỗi tiêu diệt độc lập để sử dụng trong các cuộc tấn công. Tuy nhiên, trong tương lai gần, nó sẽ vẫn phụ thuộc vào tình báo, giám sát, trinh sát, chỉ thị mục tiêu và lập kế hoạch nhiệm vụ của Hoa Kỳ, điều này đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ với Washington.
Bài học thứ năm: Sử dụng phương tiện không người lái
Một trong những bài học thú vị hơn rút ra từ Ukraine không chỉ liên quan đến việc cả hai bên sử dụng rộng rãi các nền tảng phương tiện không người lái, mà còn là những cách sáng tạo mà chúng đã được sử dụng. Người Ukraine đã tỏ ra khéo léo trong việc tạo ra phần mềm xác định mục tiêu và các cải tiến khác mà binh lính có thể dễ dàng sử dụng trên chiến trường. Tất cả những điều này đã chứng minh tính hiệu quả của các hệ thống không người lái cho các mục đích tình báo, giám sát, trinh sát, tấn công cơ giới và xác định mục tiêu.
Trong Chiến lược phòng thủ quốc gia năm 2022 của Nhật Bản, tầm quan trọng của việc phát triển các nền tảng không người lái được ưu tiên liệt kê. Việc triển khai thành công các nền tảng không người lái của Hoa Kỳ tới các Căn cứ Không quân Misawa, Yokota và Kanoya là bằng chứng cho thấy sự ủng hộ to lớn từ Tokyo với các hoạt động của máy bay không người lái. Nhưng vẫn còn nhiều câu hỏi về cách mà Tokyo dự định sử dụng các khả năng của các thiết bị không người lái vì nước này vẫn đang trong giai đoạn phát triển công nghệ này. Ví dụ, trước hành động quân sự của Nga, hầu hết suy nghĩ của người Nhật về các nền tảng không người lái đều tập trung vào việc mua các nền tảng lớn, như Global Hawk (máy bay trinh sát không người lái). Nhưng cuộc chiến ở Ukraine cho thấy rằng rất nhiều các vai trò quan trọng trong một cuộc xung đột có thể được thực hiện bởi các nền tảng nhỏ và rẻ tiền, chẳng hạn như vấn đề UAV cảm tử.
Đối với các nhà hoạch định, Nhật Bản đang tìm cách xâm nhập phạm vi bao phủ “chống tiếp cận và xâm nhập” của Trung Quốc, cần cân nhắc nhiều hơn đến các nền tảng “có thể phân bổ” nhỏ hơn – vũ khí rẻ tiền, sử dụng một lần, có thể mua với số lượng lớn hơn nhiều. Tương tự như vậy, sẽ hợp lý khi Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản huấn luyện các đơn vị chiến thuật nhỏ có khả năng triển khai riêng biệt trên chiến trường, thậm chí vượt ra ngoài khoảng cách tầm nhìn. Điều quan trọng là vẫn chưa biết các nhà hoạch định Nhật Bản đang nỗ lực cập nhật mạng lưới chỉ huy, kiểm soát của họ ở mức độ nào để tích hợp thông tin tình báo nhanh chóng mà các nền tảng không người lái này cung cấp vào các nền tảng tấn công hiện đang được mua sắm.
Điều dường như không nhận được nhiều sự chú ý ở Nhật Bản là rủi ro mà các phương tiện không người lái của Trung Quốc có thể gây ra cho các căn cứ và khả năng của Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản. Việc sử dụng máy bay không người lái ở Ukraine đã trở nên tương tự như việc sử dụng bom tự chế ở Iraq và Afghanistan. Từ góc độ quốc phòng, không biết Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản đã rút ra được bài học gì khi chuẩn bị cho việc Trung Quốc có thể sử dụng một số lượng lớn UAV cảm tử. Ví dụ, trong các tài liệu chiến lược mới, dường như không có nỗ lực nào để bảo vệ chống lại các khả năng mới, nhỏ hơn, có thể tấn công từ trên cao. Dường như cũng không có một cuộc tranh luận gay gắt nào về việc cải thiện công nghệ chống máy bay không người lái như một phần của quá trình hiện đại hóa rộng rãi hơn các hệ thống phòng thủ tên lửa và phòng không tích hợp của Nhật Bản.
Bài học thứ sáu: Giữ vững ý chí chiến đấu
Một bài học cuối cùng từ Ukraine có thể là bài học khó nói nhất ở Nhật Bản. Trong một cuộc xung đột lớn, sự tàn phá trên diện rộng không nhất thiết chỉ giới hạn ở các căn cứ của Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản. Các cuộc tấn công của Nga vào Ukraine diễn ra trên diện rộng, không giới hạn ở các căn cứ quân sự, mà còn mở rộng ra bất cứ khu vực nào có sự ẩn náu của binh sĩ. Đối với các nhà hoạch định Nhật Bản, câu hỏi đầu tiên nên đặt ra là liệu các hệ thống phòng không và phòng thủ tên lửa hiện tại của họ, phần lớn tập trung xung quanh các căn cứ của Nhật Bản và Hoa Kỳ, có đủ cho các cuộc tấn công dồn dập hay không. Điều gì về việc bảo vệ các trung tâm dân số lớn?
Ví dụ, các tài liệu chiến lược tháng 12 gợi ý rằng có một mối lo ngại cao hơn đối với các kho dự trữ thấp, nhưng các loại đầu tư khác cũng cần thiết. Các biện pháp khả thi có thể bao gồm khả năng chiến tranh điện tử mạnh mẽ để làm suy yếu tên lửa đang tấn công, cảm biến trên không gian để phát hiện, theo dõi và xác định mục tiêu tên lửa đang tấn công, và một số tổ hợp khả năng đánh chặn hơn cho cả tên lửa đạn đạo và tên lửa hành trình. Đến lượt chúng, chúng có thể bao gồm hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo THAAD, Aegis Ashore, IFPC, hoặc khả năng chống tên lửa hành trình mạnh mẽ hơn chưa được phát triển. Tất cả những điều này là những phương tiện quan trọng để ngăn chặn sự hủy diệt trên diện rộng đến từ bầu trời, điều có thể làm mất lòng tin của công chúng đối với bất kỳ thủ tướng nào cố gắng tiếp tục cuộc chiến.
Cho đến nay, phần lớn cuộc tranh luận trong nước ở Nhật Bản về tên lửa phản công tập trung vào việc răn đe. Nhưng hậu quả của việc sử dụng chúng không phải lúc nào cũng được thảo luận trong các cuộc tranh luận công khai. Nếu Nhật Bản sử dụng những khả năng này để tấn công các mục tiêu của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc nhưng lại vô tình tấn công một mục tiêu phi quân sự hoặc một mục tiêu cũng chứa tài sản chiến lược, Trung Quốc có thể chọn đáp trả bằng lực lượng lớn hơn nhiều, bao gồm các cuộc tấn công vào cơ sở hạ tầng dân sự hoặc trung tâm dân cư. Nhật Bản đã sẵn sàng cho việc này chưa? Trong một cuộc chiến kéo dài mà Nhật Bản đang bị tấn công hàng ngày, liệu thủ tướng Nhật Bản có gặp khó khăn hơn trong việc duy trì sự tham gia của Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản? Hay người dân Nhật Bản sẽ trở nên quyết tâm hơn để chống lại kẻ xâm lược trước những thiệt hại thường xuyên về nhân mạng? Thậm chí nghiêm trọng hơn, liệu có một điểm hoặc giới hạn đỏ nào mà tại đó người đứng đầu chính phủ sẽ gặp khó khăn khi cho phép các lực lượng Hoa Kỳ tiếp tục tiến hành cuộc chiến từ các căn cứ ở Nhật Bản?
Phần kết luận
Nhật Bản đang có những bước tiến lớn để cải thiện khả năng phòng thủ của mình theo cách mà hầu hết các nhà phân tích cho rằng cách đây vài năm là không thể. Tất cả điều đó là đặc biệt. Tuy nhiên, như cuộc xung đột Ukraine đã cho thấy, chiến tranh có thể diễn ra trong một thời gian dài. Ukraine được hưởng lợi từ việc có một nhóm đối tác quốc tế cam kết không tham gia vào cuộc chiến. Ngược lại, trong một cuộc xung đột ở Đài Loan, Hoa Kỳ có thể trực tiếp tham gia. Điều đó đặt ưu tiên cho Nhật Bản để đảm bảo rằng họ có khả năng không chỉ chịu được “cú vô lê” đầu tiên mà còn phải chiến đấu trong nhiều tháng hoặc có thể là hàng năm trời. Bằng cách rút ra bài học từ Ukraine, các nhà hoạch định Nhật Bản có thể chuẩn bị tốt hơn cho nguy cơ đó.
Biên dịch: Bùi Toàn
Tác giả: Jeffrey W. Hornung là nhà khoa học chính trị cấp cao tại RAND Corporation và là giáo sư trợ giảng tại Đại học Georgetown.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của các tác giả, không nhất thiết trung với quan điểm của Nghiên cứu Chiến lược.
Mọi phản hồi học thuật cũng như các vấn đề khác quý độc giả có thể trao đổi với Ban Biên tập Nghiên cứu Chiến lược qua địa chỉ mail: [email protected]