Năm 2023, cuộc Đại suy thoái kinh tế được dự báo vẫn chưa đến. Mặc dù cuộc khủng hoảng Nga-Ukraine vẫn chưa kết thúc, nợ cao, lãi suất và lạm phát cao đi đôi với nhau. Vết sẹo do dịch bệnh để lại vẫn còn đó, nhưng do hiệu quả nền kinh tế Mỹ và Nhật Bản vượt ngoài mong đợi, kinh tế thế giới nhìn chung tốt hơn dự kiến. Tuy nhiên, kinh tế thế giới vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức.
Thương mại toàn cầu tiếp tục chậm lại, việc tái cơ cấu chuỗi công nghiệp vẫn đang diễn ra. Nguy cơ suy thoái trong nền kinh tế Mỹ đã thu hẹp đáng kể, nhưng vẫn chưa chắc chắn về việc liệu nó có thể hạ cánh êm ái như mong đợi hay không. Các tác động của chính sách tiền tệ trong tương lai của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ và Ngân hàng Trung ương châu Âu cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới. Về mặt địa chính trị, cuộc xung đột Nga-Ukraine kéo dài hai năm vẫn chưa kết thúc, trong khi xung đột Palestine-Israel lại nổi lên. Rủi ro địa chính trị rõ ràng có xu hướng gia tăng. Về lâu dài, các vấn đề dân số và khí hậu cũng ngày càng trở nên cấp bách. Vậy kinh tế thế giới sẽ như thế nào vào năm 2024?
Những yếu tố ổn định và bất định của bối cảnh kinh tế toàn cầu năm 2024
Bắt đầu từ thời đại hàng hải cuối thế kỷ XIV cho đến trước năm 2018, nhờ tiến bộ kỹ thuật và nâng cao năng lực sản xuất, mối quan hệ kinh tế không ngừng được tăng cường và luôn là con đường phát triển chủ đạo của thế giới.
Năm 2001, sau khi Trung Quốc gia nhập WTO, quá trình toàn cầu hóa kinh tế đã tăng tốc đáng kể. Nhưng vào năm 2018, khi cuộc tranh chấp thương mại bắt đầu, một số người cho rằng mô hình kinh tế thế giới bắt đầu đi ngược quá trình toàn cầu hóa. Nhưng cùng với sự cạnh tranh và hợp tác Trung-Mỹ, tác động của dịch bệnh Covid mới và xung đột Nga-Ukraine không ngừng gia tăng, nhiều người tin rằng xu hướng của nền kinh tế thế giới không phải là phi toàn cầu hóa theo đúng nghĩa thực “tách rời”, mà là tìm kiếm một sự cân bằng mới giữa an ninh và phát triển trong bối cảnh chính trị toàn cầu mới. Trong quá trình này, sự chậm lại của quá trình toàn cầu hóa đi cùng với tái cơ cấu khu vực hóa mới.
Một mặt, toàn cầu hóa gắn liền với tái cơ cấu chuỗi công nghiệp, “tách rời cứng” tạm thời chưa diễn ra.
Xung đột thương mại làm gia tăng căng thẳng địa chính trị. Quan hệ kinh tế quốc tế bị ảnh hưởng đáng kể, với thuế quan đặc biệt, kiểm soát xuất khẩu, thẩm định đầu tư, trừng phạt kinh tế, chính trị hóa các quyết định tài chính và sự can thiệp thường xuyên của Chính phủ. Tuy nhiên, toàn cầu hóa gắn liền với tái cấu trúc chuỗi công nghiệp, việc “tách rời cứng”tạm thời chưa xảy ra. Ví dụ, trong năm 2022 kim ngạch thương mại song phương giữa Trung Quốc và Mỹ đạt mức cao kỷ lục. Mặc dù việc “tách rời cứng” chưa xảy ra, nhưng sự phụ thuộc thương mại của châu Âu và Mỹ vào Trung Quốc đã giảm. Ví dụ, kim ngạch thương mại Trung Quốc-Mỹ trong năm 2022 đang tăng trưởng đã bị ảnh hưởng lớn bởi các yếu tố giá cả. Trong khi tỷ trọng thương mại của Trung Quốc với Mỹ trong tổng kim ngạch thương mại giảm từ 14,21% năm 2017, xuống còn 12% vào năm 2021. Tỷ trọng thương mại của Mỹ với Trung Quốc trong tổng kim ngạch thương mại giảm từ 16,34% năm 2017 xuống còn 13,08% vào năm 2022.
Dự báo năm 2023, mức độ phụ thuộc thương mại giữa Trung Quốc – Mỹ, Trung Quốc – EU sẽ tiếp tục giảm. Còn đối với Đông Nam Á, nơi đảm nhận chuyển giao chuỗi công nghiệp, mặc dù xuất khẩu sang Mỹ tăng nhưng quy mô nhập khẩu từ Trung Quốc của những quốc gia và khu vực này cũng đồng thời tăng lên.
Mặt khác, khu vực hóa nền kinh tế thế giới ngày càng trở nên rõ ràng, nhưng mô hình tổng thể vẫn không thay đổi.
Tương ứng với việc tái cấu trúc chuỗi công nghiệp, kinh tế thế giới đã đại khái hình thành một số khu vực. Ngoài thương mại trực tiếp Trung Quốc, Mỹ và châu Âu còn duy trì thương mại gián tiếp một cách chặt chẽ thông qua các khu vực này. Các nước trong khu vực cũng duy trì liên kết thương mại chặt chẽ với Trung Quốc, Mỹ và Châu Âu. Trong tình hình thương mại phức tạp này, vị trí của Trung Quốc như một siêu trọng điểm thương mại toàn cầu không thay đổi, và vị thế của Trung Quốc, Mỹ và châu Âu là ba trọng điểm thương mại lớn nhất thế giới không thay đổi. Do đó, mô hình tổng thể của thương mại toàn cầu không thay đổi, nhưng cán cân sức mạnh thương mại trong mô hình này đã trải qua những biến đổi.
Cụ thể, các khu vực này lần lượt là khu vực châu Mỹ được đại diện bởi Mỹ, Canada, Mexico, Brazil. Khu vực châu Âu được đại diện bởi Vương quốc Anh, các quốc gia nòng cốt của EU (Đức, Pháp), các nước Trung và Đông Âu (Cộng hòa Séc, Ba Lan) và khu vực châu Á với Trung Quốc là cốt lõi.
Tình hình ở khu vực châu Á phức tạp hơn một chút. Ngoài khu vực lớn với nền kinh tế Trung Quốc là trung tâm, còn có Ấn Độ, 10 nước khối ASEAN (Thái Lan, Malaysia, Philippines, Singapore, Việt Nam, v.v.), khu vực Đông Á với Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan là cốt lõi.
Sở dĩ Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan được phân thành một khối khu vực chủ yếu là do cân nhắc sức ảnh hưởng toàn cầu của ba nước này trong lĩnh vực bán dẫn. Đánh giá tác động từ của cuộc chiến Nga – Ukraine và dịch bệnh, ngoài các mặt hàng truyền thống như lương thực, dầu mỏ và khí đốt tự nhiên thì chất bán dẫn như chip có ảnh hưởng ngày càng mạnh mẽ đến nền kinh tế toàn cầu.
Những điểm tương đồng và khác biệt giữa các khu vực
Châu Mỹ
Điều rõ ràng nhất là các nền kinh tế của Trung Quốc, Mỹ và châu Âu đang phải đối mặt với những tình huống rất khác nhau.
Năm 2021 tại Hội nghị Công tác Kinh tế Trung ương, Trung Quốc đã tổng hợp những khó khăn chủ yếu mà quá trình phục hồi kinh tế phải đối mặt là “ ba áp lực”. Tức là nhu cầu thu hẹp, sức ép nguồn cung, kỳ vọng suy yếu. Trên thực tế cho đến nay, quá trình phục hồi kinh tế đã và đang phải đối mặt với ba áp lực này.
Biểu hiện nổi bật nhất là nhu cầu không đủ, đặc biệt thể hiện ở việc thiếu nhu cầu tiêu dùng. Vì vậy luôn có một quan điểm thảo luận về việc liệu Trung Quốc có đang phải đối mặt với vấn đề giảm phát hay không. Trong khi đó vấn đề mà Mỹ và Liên minh châu Âu phải đối mặt chủ yếu là lạm phát cao.
Nguyên nhân cơ bản của lạm phát là sự mở rộng đột ngột của khoảng cách trong nền kinh tế thực và sự nới lỏng đáng kể các điều kiện tiền tệ. Nói một cách cụ thể, đợt lạm phát lần này ở Mỹ có thể do ba nguyên nhân chủ yếu sau: Một là, sự xáo trộn của giá năng lượng và lương thực, nhưng đây là nguyên nhân chính gây ra lạm phát ở EU và là nguyên nhân thứ yếu gây ra lạm phát ở Mỹ; Hai là, lạm phát do chuỗi cung ứng gây ra. Bao gồm tác động của tranh chấp thương mại, dịch bệnh và tác động của cuộc chiến Nga – Ukraine đối với chuỗi công nghiệp và chuỗi cung ứng; Ba là, nhu cầu được chi phối thúc đẩy bởi sự tăng trưởng thu nhập của người dân.
Nhưng nguyên nhân tăng trưởng thu nhập của người dân được chia thành ba phương diện:
Thứ nhất, để ứng phó với tác động của dịch bệnh, sự phối hợp tài chính và tiền tệ đã áp dụng các biện pháp kích thích quy mô lớn, mang lại sự gia tăng thu nhập và tiêu dùng trong ngắn hạn. Điều này cũng gián tiếp hỗ trợ kim ngạch thương mại cao kỷ lục giữa Trung Quốc và Mỹ trong năm 2022, bởi tiêu dùng của các hộ gia đình Mỹ cần sự hỗ trợ xuất khẩu từ Trung Quốc;
Thứ hai, lãi suất thế chấp nhà của Mỹ là lãi suất cố định, việc FED tiếp tục tăng lãi suất đã mang lại thu nhập lãi ròng cho người dân;
Thứ ba, tiền lương trên thực tế tăng mạnh do thị trường việc làm bùng nổ. Thực tế là mức lạm phát giá cả giảm nhiều hơn mức tăng lương danh nghĩa. Điều thị trường quan tâm là: sau khi tăng lãi suất nhanh chóng trong gần hai năm qua, chu kỳ tăng lãi suất này đã kết thúc hay chưa? khi nào việc cắt giảm lãi suất sẽ xuất hiện?
Đợt lạm phát này ở Mỹ bề ngoài có vẻ là do nhu cầu quá nóng, nhưng trên thực tế, nguyên nhân cơ bản là do sự mất cân bằng và nguồn cung không đủ của thị trường hàng hóa và thị trường lao động do dịch Covid-19 mang lại. Chỉ cần hai thị trường hàng hóa và lao động phục hồi là có thể giảm lạm phát. Thị trường việc làm tiếp tục tăng cao khiến FED không có ý định rõ ràng để thay đổi chính sách lãi suất của mình trong tương lai gần. Nhưng có hai kịch bản có thể ảnh hưởng đến sự lựa chọn chính sách tiền tệ của FED.
Kịch bản đầu tiên: quy mô và tính bền vững của việc mở rộng tài chính
Trong đại dịch, Mỹ đã triển khai ba đợt chính sách kích thích tài chính với tổng quy mô lên tới 5 nghìn tỷ USD, khiến quy mô nợ của chính phủ liên bang tăng vọt nhanh chóng. Trong bối cảnh tăng lãi suất, nợ của chính phủ liên bang sau khi hết hạn cần phải tiếp tục với lãi suất cao hơn. Tính đến 17/11/2023, quy mô nợ của Chính phủ liên bang đã lên tới 33,74 nghìn tỷ đô la. Điều này có nghĩa là lãi suất tăng thêm 1%, mỗi năm sẽ tăng hơn 330 tỷ USD chi phí lãi suất, ước khoảng 1,3% GDP.
Nhưng năm 2024 là năm bầu cử của Mỹ, nhìn vào tình hình hiện tại, cuộc bầu cử tổng thống ở Mỹ dường như lại là cuộc đối đầu giữa ông Trump và ông Biden. Mà thành quả kinh tế sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc bỏ phiếu. Vì vậy, chúng ta thấy rằng mặc dù nợ của Chính phủ liên bang Mỹ chạm mức trần vào năm 2023, nhưng chính quyền Biden đơn giản là không có ý định điều chỉnh tài chính thâm hụt của mình. Trong năm tài chính 2023, chi tiêu thâm hụt của Chính phủ liên bang lên đến 2 nghìn tỷ USD, tỷ lệ thâm hụt là 7,5%, gần gấp đôi so với năm 2022.
Điều này rất quan trọng, bởi nếu chính sách tài chính không thay đổi, thì chính sách tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trong tương lai lai tất nhiên phải đi theo hướng nới lỏng.
Năm 2024 thực sự khá đặc biệt, ngoài cuộc bầu cử ở Mỹ, thì Ấn Độ, Anh, v.v.. cũng tổ chức các cuộc tổng tuyển cử. Triết lý cầm quyền và lợi ích của các đảng phái chính trị khác nhau sẽ có tác động đến cục diện toàn cầu.
Kịch bản thứ 2: thị trường tài chính hoặc các tổ chức tài chính bắt đầu xảy ra vấn đề.
Vào đầu năm 2023, do các đợt tăng lãi suất quá dài của FED và các vấn đề của chính các ngân hàng. Ngân hàng Thung lũng Silicon (Silicon Valley Bank) và Ngân hàng Signature lần lượt gặp rủi ro. Vào thời điểm đó, thị trường đang tranh luận về việc liệu FED có ngừng tăng lãi suất hay không. Tuy nhiên, do lạm phát lúc đó vẫn còn cao, FED đánh giá rủi ro của hai ngân hàng trên dẫn đến xác suất rủi ro hệ thống tài chính thấp. Vì vậy Cục dự trữ liên bang Mỹ không ngừng tăng lãi suất.
Nhưng giờ đây, bất động sản thương mại trị giá 5,6 nghìn tỷ USD ở Mỹ đang phải đối mặt với những vấn đề mới. Do dịch bệnh đã thay đổi thói quen làm việc của người dân, dẫn đến tỷ lệ trống của các tòa nhà văn phòng thương mại tại San Francisco, Chicago, Dallas và các thành phố khác vượt quá 20%. Giá thuê bất động sản thương mại đang giảm nhưng chi phí hoạt động thì không. Điều này làm cho một số chủ sở hữu bất động sản không thể trả các khoản vay ngân hàng của họ.
Theo ước tính, khoảng 6% tài sản của các ngân hàng thương mại lớn tại Mỹ (với tổng tài sản trên 250 tỷ USD) là các khoản vay bất động sản, chiếm 60% vốn điều lệ của họ. Các ngân hàng khu vực có 13% tài sản là cho vay bất động sản, chiếm 160% vốn điều lệ. Hiện nay lạm phát đã giảm từ mức đỉnh 9,5% xuống mức 3%~4% và từng bước có khoảng trống cho việc cắt giảm lãi suất.
Tỷ lệ nợ xấu bất động sản không nhất thiết dẫn đến rủi ro hệ thống tài chính, nhưng nó có thể gây áp lực lên Cục Dự trữ Liên bang để cắt giảm lãi suất.
Châu Âu
Lạm phát ở Mỹ chủ yếu do nhu cầu thúc đẩy, trong khi lạm phát ở châu Âu chủ yếu do chi phí thúc đẩy. Cuộc chiến Nga – Ukraine năm 2022 gây ra cú sốc giá hàng hóa đã ảnh hưởng không nhỏ đến lạm phát và hoạt động kinh tế. Ngoài ra, trợ cấp tài chính để đối phó với ảnh hưởng của đại dịch và cú sốc năng lượng cũng góp phần vào lạm phát.
Ủy ban châu Âu dự báo năm 2023 tăng trưởng kinh tế của EU là 0,6%; năm 2024 tăng lên 1,2%. Nền kinh tế EU lấy Đức làm trọng tâm, nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế của Đức năm 2023 chỉ khoảng 0,5%. Dự kiến năm 2024 sẽ phục hồi lên khoảng 1,5%, tiếp tục phát huy vai trò là đầu tàu kinh tế châu Âu thúc đẩy các nền kinh tế xung quanh. Nhưng kinh tế châu Âu ít nhất phải đối mặt với ba vấn đề sau:
Thứ nhất, sự nhạy cảm đối với lạm phát của khu vực đồng Euro đối với chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) so với lạm phát của Mỹ đối với chính sách tiền tệ của FED là cao hơn.
Mỹ là nền kinh tế lớn nhất thế giới, đồng USD là đồng tiền dự trữ quan trọng nhất thế giới. Điều này quyết định rằng xu hướng kinh tế và chính sách kinh tế vĩ mô của Mỹ sẽ có tác động đến phần còn lại của thế giới và ảnh hưởng đến châu Âu. Ví dụ, trong hai năm qua, Ngân hàng Trung ương châu Âu liên tục tăng lãi suất, vừa để kiềm chế lạm phát vừa ở một mức độ nào đó chống lại tác động việc tăng lãi suất của FED.
Lạm phát cao ở châu Âu và Mỹ đã ảnh hưởng đáng kể đến chi phí sinh hoạt của người dân nói chung. Đặc biệt các nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào năng lượng của Nga đã phải trải qua đợt tăng giá năng lượng cao hơn và tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại đáng kể.
Và câu hỏi tiếp theo là, nếu FED cắt giảm lãi suất vào năm 2024, liệu ECB có làm theo?
Lạm phát của khu vực đồng Euro đã giảm từ mức đỉnh hơn 10% vào năm 2022 xuống còn 2,9% vào tháng 10 năm nay. Mặc dù xu hướng lạm phát của 20 quốc gia thành viên khu vực đồng Euro là khác nhau và lạm phát cũng có thể tạm thời tăng trong những tháng tới do ảnh hưởng các hiệu ứng cơ bản, nhưng xu hướng chủ đạo sẽ là giảm.
Do đó, nếu FED cắt giảm lãi suất, ECB rất có khả năng cũng cắt giảm lãi suất do những tác động tiêu cực của việc Ngân hàng Trung ương châu Âu liên tục tăng lãi suất đối với nền kinh tế trong khu vực. Vấn đề là lạm phát ở EU chủ yếu do chi phí thúc đẩy. Mặc dù Đức và các quốc gia khác phụ thuộc nhiều vào năng lượng của Nga đã giảm sự phụ thuộc xuống mức gần bằng 0 bằng cách đa dạng hóa nhập khẩu với tốc độ nhanh hơn dự kiến. Nhưng giá khí đốt tự nhiên và khí đốt tự nhiên hóa lỏng từ Mỹ, Canada, Na Uy và các nước khác cao hơn Nga, làm tăng giá năng lượng nhập khẩu, khiến mức lạm phát ở châu Âu có thể nhạy cảm hơn với việc cắt giảm lãi suất của ECB. Điều này sẽ hạn chế các lựa chọn chính sách tiền tệ của ECB dẫn đến sự phục hồi kinh tế của châu Âu không có tính chắc chắn.
Thứ hai, lạm phát, việc làm và các khoản nợ trong khu vực đồng Euro tồn tại sự phân hóa. Việc làm và chậm tiền lương tạo ra rủi ro làm mức tiêu dùng giảm xuống.
(1) Tình hình việc làm tồn tại sự phân hóa.
Thị trường lao động ở khu vực đồng Euro phục hồi nhanh hơn ở Mỹ, nhưng có sự khác biệt đáng kể giữa các quốc gia. Chẳng hạn như sự bùng nổ việc làm cao hơn ở Đức và Pháp trong nửa đầu năm 2023. Tuy nhiên, trong nửa cuối năm 2023, ngoài tỷ lệ thất nghiệp ở Pháp tăng, tỷ lệ thất nghiệp ở hơn 10 quốc gia bao gồm Ý, Hà Lan, Luxembourg, Síp, Latvia, Phần Lan, Áo và Estonia đã bắt đầu tăng. Điều này dường như có nghĩa là đà phục hồi kinh tế ở khu vực đồng Euro đã suy yếu hoặc thậm chí mờ nhạt và xu hướng này dự kiến sẽ tiếp tục vào năm 2024.
(2) Tình trạng lạm phát cũng đang phân hóa.
Mức lạm phát ở các nước trọng điểm như Đức, Pháp, Italy và Tây Ban Nha đã giảm dần trở lại mức 2%~4%. Tháng 09 năm 2023 lạm phát ở Hà Lan thậm chí là -0.3% so với cùng kỳ năm ngoái. Nhưng tỷ lệ lạm phát ở các nước như Slovakia, Slovenia và Croatia vẫn trên 6%. Ở một mức độ nhất định, điều này đã làm tăng khó khăn trong cho chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương châu Âu.
Khu vực đồng Euro cũng giống như Mỹ, khả năng phục hồi của thị trường việc làm và sự gia tăng thu nhập khả dụng do lạm phát giảm là những động lực quan trọng cho sự phục hồi kinh tế ở khu vực đồng Euro. Nhưng nếu tốc độ tăng trưởng việc làm và tiền lương chậm lại, hoặc nếu Chính phủ rút trợ cấp năng lượng cho người dân, mức tiêu dùng của người dân sẽ chậm lại, làm cản trở mức tăng trưởng kinh tế của khu vực đồng Euro.
Tất nhiên, ngoài việc làm và lạm phát có sự phân hóa, gánh nặng nợ của các quốc gia trước đây vẫn tồn tại sự phân hóa và có xu hướng gia tăng.
Một đặc điểm khác của khu vực đồng Euro có thể bị bỏ qua là ngoài sự phụ thuộc năng lượng bên ngoài, về mặt thương mại khu vực đồng Euro thực sự là một nền kinh tế định hướng xuất khẩu. Xuất khẩu chiếm 42% GDP năm 2022. Sau khi trừ thương mại nội khối, xuất khẩu chiếm tỉ lệ tương đương 21,4%, cao hơn Hoa Kỳ (8,1%) và Trung Quốc (19,6%). Điều này có nghĩa là nhu cầu thị trường toàn cầu vào năm 2024 cũng sẽ có tác động lớn hơn đến khu vực đồng Euro.
Thứ ba, cuộc chiến Nga-Ukraine và xung đột Israel-Palestine đã phủ bóng đen lên sự phục hồi bền vững của nền kinh tế khu vực đồng Euro.
Việc cuộc chiến Nga-Ukraine sẽ kéo dài bao lâu, tác động đối với Trung và Đông Âu, khu vực đồng Euro và châu Âu nói chung tồn tại tính không xác định. Các lệnh trừng phạt của châu Âu và Mỹ đối với Nga đã buộc châu Âu phải tìm kiếm các nguồn khí đốt tự nhiên và dầu mỏ mới. Vị trí quan trọng của dầu khí Trung Đông trong việc định hình lại bối cảnh năng lượng toàn cầu đã trở nên nổi bật hơn.
Kể từ khi bùng nổ mặt trận mới của cuộc xung đột Palestine-Israel, sự thù địch chủ yếu chỉ giới hạn ở Gaza và Israel. Tuy chưa gây ra sự gián đoạn nào đối với nguồn cung cấp dầu, nhưng nếu cuộc xung đột lan sang các khu vực khác của Trung Đông, bao gồm cả Iran, nó sẽ có tác động tiêu cực đến mạng lưới thương mại toàn cầu, bao gồm cả thị trường dầu mỏ và hàng hóa. Vì vậy vẫn cần phải cảnh giác trước các tác động không chắc chắn của việc mở rộng cuộc xung đột Palestine-Israel.
Tuy nhiên, do cường độ sản xuất năng lượng giảm trong những thập kỷ gần đây, nguồn cung cấp dầu bên ngoài Trung Đông ngày càng đa dạng hóa cộng thêm nguồn dự trữ năng lượng chiến lược. Cho nên sự gián đoạn nghiêm trọng đối với nguồn cung cấp dầu hiện nay sẽ có tác động ít hơn nhiều so với lệnh cấm vận dầu mỏ của OPEC vào năm 1973-1974, cuộc bạo động ở Iran năm 1978-1979, chiến tranh Iran-Iraq năm 1980 và Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất 1990-1991.
Nếu xét về lâu dài, còn một xu hướng quan trọng khác đáng chú ý là các đảng cực hữu đang liên tục nắm giữ quyền lực. Ví dụ như Hungary, Italia, Slovakia, thậm chí cả Hà Lan, Đức và Pháp, với ảnh hưởng ngày càng lớn trong lĩnh vực chính trị. Điều này có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế khu vực đồng Euro và tiến trình nhất thể hóa của Liên minh châu Âu.
Châu Á
Khu vực Châu Á với nền kinh tế Trung Quốc làm trung tâm, truyền động lực lan tỏa ra các nước xung quanh của khu vực Đông Á và các nước ASEAN.
Cuộc tranh chấp thương mại Trung-Mỹ năm 2018 đã khiến cuộc thảo luận về chuyển dịch chuỗi công nghiệp ngày càng nóng. Nhưng chuyển giao chuỗi công nghiệp không phải bắt đầu bằng xung đột thương mại Trung-Mỹ và đây cũng không phải là lý do duy nhất cho việc tái thiết chuỗi công nghiệp toàn cầu. Tranh chấp thương mại cùng với dịch bệnh Covid-19 mới cộng thêm cuộc chiến Nga- Ukraine đã góp phần đẩy nhanh tái cơ cấu chuỗi công nghiệp toàn cầu.
Nguyên nhân cơ bản cho việc tái cấu trúc chuỗi công nghiệp toàn cầu là do chạy theo chi phí, những thay đổi ưu đãi chi phí phát sinh cộng thêm xáo trộn địa chính trị.
Ba lần chuyển dịch chuỗi công nghiệp trong các năm 2001, 2008 và 2012 chủ yếu là do chạy theo chi phí.
Năm 2001, Trung Quốc gia nhập WTO, cung cấp nguồn lao động giá rẻ chất lượng cao và một thị trường rộng lớn cho ngành sản xuất toàn cầu. Các ngành công nghiệp sản xuất cấp thấp và trung bình sử dụng nhiều lao động ở các nước phát triển chuyển sang Trung Quốc. Năm 2008 là năm chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính, những ngành công nghiệp này ở các nước phát triển tiếp tục chuyển sang Trung Quốc và các nước Đông Nam Á. Đồng thời cũng kèm theo việc chuyển dịch một số ngành sản xuất cấp trung và cao sang Trung Quốc.
Năm 2012, Trung Quốc đạt đến bước ngoặt lớn, một số doanh nghiệp quốc tế và doanh nghiệp Trung Quốc có tầm nhìn xa đã bắt đầu lên kế hoạch hướng tới tương lai ở Đông Nam Á.
Trung Quốc là nước hưởng lợi từ đợt chuyển dịch công nghiệp đầu tiên. Vào thời điểm chuyển dịch công nghiệp lần thứ hai, thế giới đang trong cuộc khủng hoảng tài chính và nền kinh tế Trung Quốc phát triển mạnh mẽ nhờ được kích thích 4 nghìn tỷ nhân dân tệ. Quy mô chuyển dịch công nghiệp lần thứ ba tương đối nhỏ. Vì vậy cảm nhận của Trung Quốc về 3 lần chuyển giao công nghiệp nói trên là không sâu sắc lắm.
Phải đến năm 2019 và sau này, việc tái cấu trúc chuỗi công nghiệp toàn cầu mới bắt nguồn từ những xáo trộn địa chính trị như tranh chấp thương mại Trung-Mỹ, tác động của dịch bệnh Covid-19 mới và cuộc xung đột Nga-Ukraine. Hơn nữa, Trung Quốc là nhân vật chính trực tiếp của việc chuyển dịch chuỗi công nghiệp cộng thêm sự thay đổi tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc khiến cảm nhận của họ mới sâu sắc như vậy. Điều đó đặt ra hai câu hỏi:
Thứ nhất, lợi thế của quốc gia tiếp nhận việc chuyển dịch chuỗi công nghiệp này là gì? Trả lời câu hỏi này thực sự có thể gián tiếp trả lời liệu Trung Quốc có phải đối mặt với áp lực dòng vốn đầu tư nước ngoài bị chảy đi trong tương lai hay không?
Thứ hai, vai trò của Trung Quốc trong nền kinh tế thế giới là gì? Trả lời câu hỏi này thực sự là một câu trả lời gián tiếp cho những ưu thế của Trung Quốc là gì? Tác động theo chiều sâu và chiều rộng của việc chuyển dịch chuỗi công nghiệp này đối với nền kinh tế Trung Quốc.
Hiện tại, không có quốc gia nào trên thế giới có thể thay thế Trung Quốc, nhưng các nước như Ấn Độ , Việt Nam và các nước Đông Nam Á cũng như Mexico có thể có một số thay thế luân phiên cho Trung Quốc trong một số lĩnh vực công nghiệp nhất định. Thị trường mới nổi đang thu hút đầu tư và vốn hấp dẫn nhất hiện nay là Mexico, tiếp theo là Brazil và Ấn Độ.
Để tăng cường khả năng phục hồi chuỗi cung ứng của Mỹ, kể từ khi chính quyền Trump lên nắm quyền, cái gọi là chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương đã liên tục được tung hô. Năm 2022, chính quyền Biden đã đề xuất thành lập “Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” (IPEF), nhằm tái cấu trúc hệ thống chuỗi cung ứng toàn cầu để kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Ngày 27/05/2023, IPEF gồm 14 quốc gia thành viên trong đó có Ấn Độ, đã nhất trí về điều phối chuỗi cung ứng – một bước tiến quan trọng trong việc loại bỏ Trung Quốc khỏi chuỗi cung ứng. Ngày 22/06/2023 sau chuyến thăm Mỹ của Thủ tướng Ấn Độ Modi, hai bên đã ra tuyên bố chung, cùng nhau triển khai hợp tác toàn diện chưa từng có trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ, quốc phòng, hội nhập chiến lược, chuyển dịch năng lượng sạch, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn cầu và y tế công cộng.
Do chất lượng lao động, cơ sở hạ tầng, các yếu tố văn hóa v.v.., vị thế sản xuất toàn cầu của Ấn Độ rất khó để trở thành Trung Quốc hiện tại. Nhưng cần phải cảnh giác rằng xu hướng phát triển của Ấn Độ không ngừng tiếp cận Trung Quốc khoảng trước và sau năm 2000.
Bị ảnh hưởng bởi cơ cấu công nghiệp, trong số các thị trường mới nổi, Việt Nam vốn được đánh giá cao trong năm 2022, nhưng năm 2023 lại không được tốt cho lắm. Một trong những nguyên nhân chính là xuất khẩu của Việt Nam trong lĩnh vực điện tử tiêu dùng và các sản phẩm công nghệ khác tương đối lớn. Trong khi chu kỳ công nghệ toàn cầu đang chạm đáy. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã phải cắt giảm lãi suất trong nửa đầu năm 2023 do tăng trưởng kinh tế chậm hơn dự kiến, dẫn đến khoảng cách ngày càng lớn lãi suất trái phiếu Chính phủ giữa Việt Nam và Mỹ, dòng vốn bị thất thoát nhiều. Tuy nhiên, khi chu kỳ công nghệ toàn cầu chuyển từ đi xuống sang chu kỳ đi lên, các nền kinh tế có tỷ trọng xuất khẩu điện tử tiêu dùng cao, chẳng hạn như Việt Nam tình hình có thể được cải thiện tốt hơn.
Ngoài ra, điều đáng chú ý là chính quyền Biden đã liên tục đưa ra các chính sách công nghiệp mới và tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng, chip và các ngành công nghiệp năng lượng mới. Với việc thúc đẩy thu hút đầu tư của khu vực tư nhân, tốc độ tăng trưởng đầu tư ngành sản xuất ở Mỹ đã tăng lên đáng kể. Lý do tại sao nền kinh tế Mỹ sẽ mạnh hơn dự kiến vào năm 2023 liên quan nhiều đến việc hoạt động sản xuất đã quay trở lại với Mỹ.
Ngành sản xuất công nghiệp đã quay trở lại Mỹ không chỉ bao gồm một phần năng lực sản xuất của châu Á, mà còn bao gồm một phần năng lực sản xuất của châu Âu. Sau cuộc xung đột Nga-Ukraine, châu Âu đã phải hứng chịu giá năng lượng và lạm phát cao. Để đối phó với tình trạng lạm phát cao này, các doanh nghiệp châu Âu đã phải chuyển một phần năng lực sản xuất của họ ra nước ngoài. Trong đó phần lớn được chuyển sang Mỹ.
Ảnh hưởng của nền kinh tế Nhật Bản đối với khu vực châu Á chủ yếu được quyết định bởi khi nào Ngân hàng Trung ương Nhật Bản bắt đầu thay đổi chính sách tiền tệ của mình.
Khi các nước phát triển đã thay đổi chính sách nâng lãi suất lên mức cao nhất trong 40 năm qua, Nhật Bản vẫn duy trì lãi suất âm trong khi lạm phát đang tăng nhanh. Lạm phát chuyển từ nhập khẩu năng lượng sang lạm phát tiền lương do thiếu lao động. Đã có một thế hệ ở Nhật Bản chưa từng chứng kiến lạm phát, và năm 2024 liệu Nhật Bản có bắt đầu tăng lãi suất hay không đã trở thành tâm điểm chú ý của thị trường.
Do sức ảnh hưởng toàn cầu của Hàn Quốc và Đài Loan trong lĩnh vực bán dẫn, sự tác động không chắc chắn trong quan hệ Hàn Quốc – Triều Tiên, quan hệ Nhật Bản – Hàn Quốc và tình hình ở Biển Đông đối với nền kinh tế toàn cầu cũng có thể gia tăng theo chu kỳ. Trên thực tế, cuộc chiến Nga – Ukraine và xung đột Palestine – Israel cũng sẽ ảnh hưởng đến nguồn lực mà Mỹ đầu tư vào khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Từ đó ảnh hưởng đến việc bố trí chuỗi công nghiệp của Mỹ ở Đông Nam Á.
Đâu là động lực mới của nền kinh tế?
Loại trừ nguy cơ bất ổn địa chính trị mà nền kinh tế thế giới phải đối mặt vào năm 2024, câu hỏi chung mà nền kinh tế thế giới phải đối mặt là: đâu là động lực tăng trưởng mới?
Trong gần hai thế kỷ kể từ khi bắt đầu cuộc cách mạng Công nghiệp, việc theo đuổi của cải vật chất vẫn là mục tiêu hàng đầu của nhân loại. Với sự tiến bộ về năng lực sản suất và luân chuyển sản xuất trên phạm vi toàn cầu, bất chấp vấn đề phân phối thu nhập, của cải vật chất do con người tạo ra và thu nhập của người dân ngày càng tăng. Vì vậy các nước thu nhập thấp, các nước đang phát triển và phát triển đã phát triển một mô hình “thu nhập – tiêu dùng”.
Tuy nhiên, tại Mỹ trong ba thập kỷ qua sức mua của 80% dân số đã không thấy sự gia tăng. Ở Pháp, tốc độ tăng trưởng bình quân đầu người hàng năm đã giảm đều đặn từ 3% trong những năm 70 của thế kỷ 20 xuống còn 2% và tiếp tục giảm xuống 1% trong hơn chục năm tới. Trong 50 năm qua đã giảm xuống gần như bằng không.
Hiện nay các nước phát triển đang phải đối mặt với nợ và lãi suất cao, tăng trưởng thấp. Trong khi các nước đang phát triển phải đối mặt với bẫy thu nhập trung bình và khủng hoảng nợ. Điều này đưa chúng ta trở lại câu hỏi quan trọng: Liệu phục hồi tăng trưởng kinh tế có mang lại lợi ích cho nhiều người hơn không? Nếu không, tương lai sẽ như thế nào?
Đất đai, lao động, vốn và công nghệ là bốn yếu tố sản xuất quan trọng nhất trong lý thuyết tăng trưởng kinh tế. Kể từ thế kỷ 21 trở lại đây, triển vọng công nghệ do sự phát triển của Internet chưa bao giờ sáng sủa như vậy. Nhưng cuộc cách mạng công nghiệp mới dựa trên sự đổi mới sáng tạo dường như ít đóng góp cho tăng trưởng kinh tế hơn so với cuộc cách mạng công nghiệp.
Liệu sự xuất hiện của công nghệ trí tuệ nhân tạo sẽ mang lại sự tăng trưởng mới không?
Quay trở lại vấn đề của Trung Quốc. Nếu cơ sở hạ tầng, bất động sản chững lại thì động lực mới ở đâu?
Lợi thế của nền kinh tế Trung Quốc nằm ở chuỗi công nghiệp hoàn chỉnh, thị trường tiềm năng rộng lớn. Chỉ cần tốc độ tăng trưởng kinh tế trong 10 năm tới duy trì trên 4% thì Trung Quốc vẫn sẽ là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới và cũng là nền kinh tế đóng góp nhiều nhất cho tăng trưởng kinh tế toàn cầu.
Trong trường hợp này, động lực tăng trưởng kinh tế mới của Trung Quốc có thể bắt nguồn từ ba khía cạnh:
Thứ nhất, nâng cấp công nghiệp và chuyển đổi kinh tế. Bao gồm việc nâng cấp các ngành sản xuất truyền thống cũng như chuyển đổi xanh được đưa ra để ứng phó với biến đổi khí hậu. Ví dụ như năng lượng mới, bao gồm cơ sở hạ tầng mới, nền kinh tế mới, đổi mới khoa học và công nghệ, công nghiệp công nghệ cao, v.v. Một số chuyên gia ước tính rằng trong 20 năm tới sẽ hoàn thành đầu tư 200 nghìn tỷ nhân dân tệ cho năng lượng mới, với quy mô đầu tư trung bình hàng năm là 10 nghìn tỷ nhân dân tệ. Tất cả những điều này có thể nâng cao năng suất và cải thiện cơ cấu công nghiệp và kinh tế. Tuy nhiên, chúng ta phải làm tốt công việc kết nối năng lượng cũ và mới. Sự phát triển của nguồn năng lượng mới không phải là từ bỏ hoàn toàn các ngành công nghiệp truyền thống.
Thứ hai, điều chỉnh hướng chi ngân sách của Chính phủ. Trong quá khứ, tăng trưởng kinh tế quá phụ thuộc vào đầu tư của Chính phủ. Điều này làm méo mó việc phân bổ nguồn lực và gián tiếp dẫn đến sự ràng buộc của tài chính và bất động sản của địa phương. Với sự già hóa và thay đổi kết cấu dân số, chi ngân sách của Chính phủ trong tương lai nên xem xét tăng chi tiêu cho an sinh xã hội và các dịch vụ công bao gồm giáo dục, chăm sóc y tế, hưu trí. Có thể nâng cao lòng tin của người dân, giảm tỷ lệ tiết kiệm trong dân cũng góp phần thúc đẩy tiêu dùng.
Thứ ba, trên cơ sở ổn định tăng trưởng kinh tế ngắn hạn, tích cực ứng phó với điều chỉnh cơ cấu, thúc đẩy mạnh mẽ cải cách thể chế, mở cửa với thế giới bên ngoài.
Về phương diện đối ngoại, gần đây đã có nhiều đề xuất khác nhau về hệ thống và tiêu chuẩn. Mặc dù đầu tư nước ngoài năm 2023 giảm đáng kể, trong đó có một số yếu tố mang tính kết cấu bao gồm sự chuyển dịch chuỗi công nghiệp và chi phí lao động tăng cao. Cũng có những yếu tố mang tính chu kỳ như lãi suất đồng đô la Mỹ tăng, nhưng nhìn chung Trung Quốc vẫn là thị trường lớn thứ hai thế giới và dường như trong tương lai gần như không có thị trường đơn lẻ nào khác có thể thay thế được
Như vậy chỉ cần không có vấn đề lớn trong cải cách hệ thống và mở cửa với thế giới bên ngoài thì Trung Quốc chắc chắn sẽ vẫn hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài. Việc mở cửa là điểm mấu chốt, về bản chất Trung Quốc và thế giới cần nhau. Do đó, Trung Quốc cần cân nhắc họ cần gì từ thế giới? Thế giới cần gì từ họ? Trung Quốc có thể cung cấp cho thế giới những gì?
Về lâu dài, chỉ có cải cách toàn diện sâu sắc mới có thể đảm bảo xây dựng một thể chế để duy trì ổn định xã hội và tăng trưởng kinh tế. Đôi khi sự thành công hay thất bại của các chính sách kinh tế vĩ mô không chỉ nằm ở việc thiết kế xây dựng mà còn ở môi trường thể chế và hệ sinh thái xã hội nơi chúng được thực hiện.
Năm 2024 có thể vẫn còn những rủi ro khó lường, nhưng chúng ta tin rằng thế giới chắc chắn sẽ trở nên tốt đẹp hơn.
Biên dịch: Nguyễn Phượng
Tác giả: Cổ Minh là Nhà nghiên cứu kinh tế trẻ của Trung Quốc. Lĩnh vực nghiên cứu chủ yếu là kinh tế học hành vi, kinh tế học thực nghiệm, kinh tế vĩ mô, kinh tế chính trị và quan hệ quốc tế.
Bài viết thế hiện quan điểm riêng của tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của Nghiên cứu Chiến lược, vui lòng không sao chép khi chưa được phép. Mọi trao đổi học thuật và các vấn đề khác, quý độc giả có thể liên hệ với Ban Biên tập qua địa chỉ mail: [email protected]