Cục diện Biển Đông trong năm 2025 đang chứng kiến nhiều chuyển biến mới khi Trung Quốc triển khai loạt động thái nằm trong những tính toán tinh vi nhằm củng cố yêu sách chủ quyền vốn bị cộng đồng quốc tế bác bỏ. Bắc Kinh khéo léo phối hợp hiện diện quân sự, đòn bẩy pháp lý và công cụ ngoại giao để từng bước kiến tạo một “trạng thái bình thường mới” hướng tới mục tiêu chuyển hóa ưu thế trên thực địa thành quyền kiểm soát lâu dài. Những bước đi này diễn ra trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược Mỹ – Trung ngày càng leo thang, cùng với sự gia tăng can dự của nhiều chủ thể vào vấn đề an ninh hàng hải, khiến Biển Đông tiếp tục trở thành điểm nóng tiềm ẩn nguy cơ xung đột. Đối với Việt Nam, đây không chỉ là thách thức an ninh mà còn là phép thử về tầm nhìn, sự linh hoạt và hiệu quả của chính sách đối ngoại trong việc cân bằng quan hệ giữa các nước lớn, đồng thời duy trì môi trường hòa bình cho khu vực.
Một số động thái nổi bật của Trung Quốc ở Biển Đông
Bối cảnh Biển Đông từ đầu năm 2025 đến nay
Từ giai đoạn cuối năm 2024 đến đầu năm 2025, làn sóng cạnh tranh địa chính trị toàn cầu không ngừng gia tăng tạo nên những tác động cộng hưởng đến bức tranh an ninh chung của khu vực châu Á – Thái Bình Dương cụ thể tại Biển Đông.
Gam màu trung tâm được phản ánh qua mối quan hệ phức tạp giữa các quốc gia ven biển có tuyên bố chủ quyền chồng lấn. Trung Quốc, với quyết tâm củng cố hiện trạng theo hướng có lợi cho mình, đã triển khai liên tiếp nhiều hoạt động mới ngay từ sớm. Các dữ liệu vệ tinh do Sáng kiến Minh bạch Hàng hải châu Á (AMTI/CSIS) công bố trong hai quý đầu 2025 cho thấy hàng loạt thực thể ở Trường Sa tiếp tục được bồi đắp, triển khai khí tài quân sự nhằm từng bước biến các đảo nhân tạo thành tiền đồn cho các hoạt động lâu dài[1].
Đứng trước tham vọng ngày càng cao của Trung Quốc, các quốc gia ASEAN lại bộc lộ sự phân hóa đáng kể. Biểu hiện này thường thấy ở những nước có mức độ phụ thuộc kinh tế cao vào Trung Quốc như Campuchia hay phần nào cả Malaysia. Sự khác biệt lợi ích này khiến ASEAN chưa thể hình thành một mặt trận đồng thuận đủ mạnh để tạo sức ép tập thể lên Bắc Kinh. Quá trình đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) vì thế tiếp tục gặp nhiều trở ngại chưa đạt bước tiến thực chất dẫn đến triển vọng thành công bị kéo dài thêm.
Ở vòng ngoài, Biển Đông tiếp tục giữ vị trí tâm điểm của một mạng lưới hoạt động an ninh – quân sự do Mỹ dẫn dắt tại Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, với sự tham gia ngày càng sâu của nhiều chủ thể. Ngay từ đầu năm 2025, Mỹ thực hiện đợt tái bố trí hàng loạt hệ thống tên lửa tầm trung chiến lược Typhon trên lãnh thổ Philippines nhằm chuẩn bị cho các phương án xung đột[2]. Ngoài ra, Washington vẫn duy trì các chiến dịch tuần tra tự do hàng hải (FONOPs) qua eo biển Luzon, gần hai quần đảo Hoàng Sa (Paracel Islands) và Trường Sa (Spratly Islands), đồng thời tổ chức nhiều cuộc tập trận song phương và đa phương quy mô lớn, mở rộng kéo dài từ tháng 2 đến hết tháng 6.
Cán cân lực lượng ở Biển Đông tiếp tục có những dấu ấn mới. Nổi bật lên với một số nhân tố thân cận với Mỹ như Úc, Anh, Pháp và các đối tác, đồng minh phương Tây khác cho thấy một cấu trúc kiềm tỏa Trung Quốc đang ngày một gia tăng so với những năm trước. Kế đến, Nhật Bản và Hàn Quốc, dù không có tuyên bố chủ quyền song vẫn tăng cường hỗ trợ năng lực hàng hải cho các nước ven biển coi đây là một phần trong chiến lược bảo vệ tuyến hàng hải huyết mạch. Ấn Độ cũng góp mặt thông qua sáng kiến “Hành động hướng Đông” thúc đẩy hợp tác sâu rộng mọi mặt với các đối tác khu vực. Ngoài ra, không thể bỏ qua sự tái hiện diện vai trò của Nga trên bàn cờ địa chính trị Đông Nam Á sau nhiều thập niên vắng bóng. Đề xuất của Nga dành cho Lào trong các dự án hạ tầng đường ra biển hay những thành quả hợp tác sâu hơn với Việt Nam đều phản ánh tham vọng khôi phục chỗ đứng chiến lược của Moscow ở khu vực.
Hệ quả từ cục diện trên cho thấy Biển Đông đang rơi vào trạng thái “cạnh tranh đa tầng”, nơi sự tương tác giữa các quốc gia ven biển với Trung Quốc và sự can dự từ bên thứ ba tạo thành vòng xoáy kích thích cạnh tranh chiến lược. Tuy nhiên, chính sự hiện diện của các lực lượng bên ngoài đã phần nào hạn chế khả năng Trung Quốc tiến hành các bước leo thang, song đồng thời cũng làm gia tăng nguy cơ đụng độ ngoài ý muốn. Điều này khiến Biển Đông vượt ngoài tranh chấp khu vực mà trở thành điểm giao thoa lợi ích của nhiều nước lớn.
Các hành động trên thực địa của Trung Quốc
Trong năm 2025, Biển Đông tiếp tục chứng kiến những động thái có tính toán kỹ lưỡng từ phía Trung Quốc. Nếu như trước đây các hoạt động của Bắc Kinh trong khu vực thường được triển khai theo từng đợt riêng lẻ, thì nay chúng dường như đã được tích hợp thành một chiến lược tổng thể, phối hợp đồng bộ cả trên nhiều phương diện. Đáng chú ý tần suất và cường độ các hoạt động này ngày càng tăng, đồng thời bao phủ trên phạm vi rộng lớn hơn gồm cả bãi cạn nằm sát EEZ của các nước láng giềng.
Trên phương diện hạ tầng quân sự hóa, Trung Quốc tiếp tục đầu tư mạnh mẽ vào các đảo nhân tạo mà họ đã bồi đắp trái phép trong quần đảo Trường Sa. Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef) trở thành ví dụ tiêu biểu: hình ảnh vệ tinh công bố tháng 7/2025 bởi Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) và hãng tin ABC News cho thấy đường băng dài hơn 3.000 mét tại đây đã được nâng cấp, bổ sung nhiều nhà chứa máy bay cỡ lớn, hệ thống radar tần số cao và các bệ phóng tên lửa chống hạm. Những cơ sở này biến Đá Chữ thập trở thành một “căn cứ tiền phương” có khả năng hỗ trợ các hoạt động tác chiến trên không và trên biển ở phạm vi rất rộng. Tương tự, Đá Vành Khăn (Mischief Reef), Đá Xubi (Subi Reef) cũng được mở rộng với cầu tàu dài, kho chứa nhiên liệu và khu nhà ở cho quân nhân, cho thấy sự định hình một mạng lưới hậu cần – kỹ thuật kiên cố giữa Biển Đông[3].

Đi đôi với việc củng cố cơ sở hạ tầng, Bắc Kinh cũng không ngần ngại triển khai khí tài chiến lược tầm xa phục vụ mục tiêu quân sự hóa. Tháng 5/2025, hình ảnh vệ tinh từ Maxar Technologies hé lộ sự xuất hiện của máy bay ném bom H-6K, máy bay vận tải Y-20 và máy bay cảnh báo sớm loại KJ-500 trên đảo Phú Lâm (Woody Island) thuộc quần đảo Hoàng Sa. Đây trở thành lần đầu tiên loại máy bay này xuất hiện tại khu vực kể từ năm 2020. Với tầm bay trên 3.500 km cùng khả năng mang tên lửa hành trình chống hạm, H-6K mở rộng đáng kể năng lực răn đe của Trung Quốc, đồng thời gửi đi thông điệp rằng Bắc Kinh sẵn sàng chuẩn bị cho đối đầu quân sự nếu cần. Abdul Rahman Yaacob, nghiên cứu viên tại Chương trình Đông Nam Á của Viện Lowy cho biết các căn cứ này cực kỳ đáng lo ngại đối với Úc[4].

Ngoài ra, Bắc Kinh cũng tăng cường hoạt động tập trận trong khu vực Biển Đông, xung quanh eo biển Đài Loan. Sớm nhất từ thời điểm tháng 2/2025, Cục An toàn Hàng hải Trung Quốc (MSA) phát đi cảnh báo về cuộc tập trận bắn đạn thật tại Vịnh Bắc Bộ cách đảo Bạch Long Vĩ (Việt Nam) khoảng 150 km[5]. Các cuộc tập trận diễn ra không chỉ giữa các lực lượng thuộc PLA mà còn phối hợp giữa nhiều đơn vị bán quân sự. Từ đầu năm 2025 đến tháng 6, Cảnh sát biển Trung Quốc tăng số ngày tuần tra lên trung bình khoảng 95 tàu/ngày/tháng gần gấp đôi so với mức trung bình 48 tàu/ngày/tháng cùng kỳ năm trước. Hoạt động này đi kèm với 12 vụ va chạm mỗi tháng, chủ yếu với Cảnh sát biển Philippines[6].
Hoạt động thử nghiệm các phương tiện đổ bộ mới cũng cho thấy sự chuẩn bị bài bản cho các kịch bản đối đầu quân sự. Vào cuối tháng 3/2025, truyền thông quốc tế và một số trang phân tích quốc phòng ghi nhận sự xuất hiện của sà lan đổ bộ lớp Shuiqiao thử nghiệm lần đầu ngoài khơi Quảng Châu. Loại phương tiện này có thể triển khai cầu phao tạm thời, cho phép xe tăng và khí tài hạng nặng tiếp cận đảo hoặc bờ biển mà không cần phải có cầu phao cố định. Nếu đưa vào sử dụng ở Biển Đông, chúng sẽ tăng đáng kể khả năng Trung Quốc thực hiện các chiến dịch chiếm đóng đảo một cách nhanh chóng[7].

Một diễn biến khác ít ồn ào nhưng không kém phần quan trọng là việc Trung Quốc triển khai hệ thống radar chống tàng hình trên đảo Tri Tôn (Triton Island) thuộc quần đảo Hoàng Sa. Theo phân tích của tờ The Guardian và một số chuyên gia thuộc Viện Quan hệ quốc tế Chatham House đánh giá điều này cho thấy bước đi khôn ngoan nhằm lấp khoảng trống giám sát trước các loại máy bay tàng hình như F-35 của Mỹ và đồng minh. Hệ thống này, khi đưa vào vận hành ổn định sẽ nâng cao khả năng cảnh giới chống tiếp cận/chống xâm nhập, tạo ưu thế chiến thuật đáng kể trong các tình huống khẩn cấp[8].
Song song với việc củng cố năng lực quân sự, Trung Quốc cũng tiếp tục duy trì và mở rộng các hoạt động “vùng xám” thông qua lực lượng bán quân sự gồm hải cảnh và dân binh biển. Trong nhiều tháng đầu năm 2025, tàu hải cảnh Trung Quốc xuất hiện gần như liên tục tại các khu vực tranh chấp như bãi cạn Scarborough (Philippines), bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal) và cụm bãi Luconia (Malaysia). Các tàu này thường áp sát, ngăn cản hoạt động khai thác thủy sản, thậm chí cản trở các chiến dịch khảo sát dầu khí hợp pháp của các nước ven biển. Sự phối hợp giữa hải cảnh và dân binh biển giúp Bắc Kinh duy trì áp lực thường trực mà không cần triển khai lực lượng hải quân chính quy, qua đó giảm nguy cơ xung đột trực diện nhưng vẫn làm thay đổi hiện trạng theo hướng có lợi cho mình[9].
Một bước leo thang rõ rệt diễn ra vào cuối tháng 4/2025 khi Trung Quốc đưa lực lượng chấp pháp tới Đá Hoài Ân (Sandy Cay) nằm tại cụm Thị Tứ thuộc quần đảo Trường Sa. Việc dựng cờ tuyên bố chủ quyền ngay tại chỗ không chỉ mang ý nghĩa biểu tượng truyền thông mà còn mở ra khả năng xây dựng cơ sở cố định trong tương lai, tạo bàn đạp cho hoạt động giám sát hoặc quân sự hóa sâu hơn. Động thái này đánh dấu một sự chuyển đổi đáng kể trong phương thức hành động của Bắc Kinh từ chiến thuật “lấn dần” sang hình thức “dựng cờ” ở Trường Sa. Đây là chỉ dấu rõ rệt về mức độ tự tin và quyết tâm gia tăng của Trung Quốc trong việc áp đặt yêu sách trên thực tế.
Những động thái trên không tồn tại độc lập mà được hỗ trợ bởi các hoạt động chiến tranh nhận thức và điều hướng truyền thông thuộc “Tam chủng chiến pháp” đang dần trở thành mặt trận thứ hai trong cuộc tranh chấp Biển Đông. Đầu năm 2025, trên các nền tảng mạng xã hội Trung Quốc lan truyền thông tin rằng đảo Palawan (Philippines) từng thuộc về Trung Quốc với tên gọi đảo Trịnh Hòa. Dù không phải tuyên bố chính thức từ phía chính phủ nhưng sự lan truyền này đã gây phản ứng mạnh từ phía Philippines[10]. Rộng hơn nữa, Bắc Kinh liên tục lặp lại lập trường “chủ quyền không thể tranh cãi” trong một số cuộc trao đổi diễn đàn khu vực, đồng thời thúc đẩy việc ban hành hoặc điều chỉnh quy định nội luật nhằm hợp thức hóa sự hiện diện và kiểm soát trên thực địa. Sự kết hợp giữa áp lực quân sự, hiện diện bán quân sự và tuyên truyền tạo nên một ma trận kiểm soát mà Trung Quốc hy vọng sẽ định hình luật chơi ở Biển Đông trong dài hạn.
Về tổng thể, các hành động trên thực địa của Trung Quốc trong năm 2025 thể hiện ba đặc điểm nổi bật. Một là, tính liên tục và có hệ thống, cho thấy chỉ đạo chiến lược dài hạn thay vì các phản ứng tình huống. Hai là, sự pha trộn khéo léo giữa sức mạnh cứng và mềm, giữa biện pháp quân sự công khai và chiến thuật vùng xám. Ba là, mức độ quyết đoán ngày càng cao, sẵn sàng tiến tới những bước thay đổi hiện trạng về lâu dài. Tất cả những điều này đang dần định hình một thực tế mới trên biển, trong đó Trung Quốc củng cố vị thế kiểm soát, còn các nước liên quan buộc phải ứng phó trong điều kiện bị hạn chế về không gian hành động.
Nguyên nhân chủ yếu thúc đẩy những động thái trên
Trước hết, từ góc độ an ninh – quân sự, Trung Quốc tiếp tục theo đuổi học thuyết “phòng thủ biển xa” chuyển trọng tâm từ phòng thủ lục địa sang ưu tiên vấn đề an ninh biển, chú trọng phát triển các lợi ích hàng hải ở Biển Đông. Với mục tiêu đẩy tuyến phòng thủ chiến lược ra ngoài chuỗi đảo thứ nhất*, qua đó bảo đảm không gian tác chiến thuận lợi trong kịch bản bắt buộc phải đối đầu với Mỹ cùng đồng minh. Việc gia tăng triển khai máy bay ném bom hay các khí tài giám sát tầm xa ở Trường Sa và Hoàng Sa không chỉ mang ý nghĩa phòng thủ mà còn mở rộng khả năng khống chế các tuyến hàng hải chiến lược, vốn chiếm khoảng 30% thương mại hàng hải toàn cầu.
Thứ hai, động lực kinh tế, cụ thể là an ninh năng lượng trở thành yếu tố thúc đẩy mạnh mẽ. Theo ước tính của Cơ quan Thông tin Năng lượng Hoa Kỳ (EIA), Biển Đông có khoảng 11 tỉ thùng dầu và 190 nghìn tỉ feet khối khí tự nhiên, một nguồn tài nguyên khổng lồ trong bối cảnh nhu cầu năng lượng của Trung Quốc ngày càng leo thang[11]. Trước áp lực phải duy trì tăng trưởng và phải giảm phụ thuộc vào nguồn cung từ Trung Đông hay Nga, việc Tổng công ty Dầu khi Hải dương Trung Quốc (CNOOC) tăng cường khảo sát, công bố phát hiện mỏ mới trong năm 2025 vừa phục vụ mục tiêu kinh tế trực tiếp, vừa tạo ra bằng chứng để củng cố yêu sách chủ quyền trên thực địa[12].
Thứ ba, Bắc Kinh vẫn trung thành với chiến lược “cắt lát salami” bằng những bước đi nhỏ, dưới ngưỡng có thể châm ngòi xung đột quân sự trực diện, nhưng tích lũy thành lợi thế dài hạn. Việc sử dụng lực lượng dân binh biển và hải cảnh để áp sát, gây sức ép với tàu cá hoặc giàn khoan của các nước khác, đồng thời duy trì hiện diện thường trực quanh các bãi đá tất cả đều nằm trong quỹ đạo này. Cách tiếp cận trên giúp Bắc Kinh tạo ra tình huống “sự đã rồi” mà các bên liên quan khó đảo ngược, trong khi vẫn tránh được phản ứng gay gắt từ cộng đồng quốc tế.
Cuối cùng, yếu tố chính trị đối nội cũng đóng vai trò đáng kể. Một số tin đồn xoay quanh việc Chủ tịch Tập Cận Bình đối mặt với sự suy giảm quyền lực. Dù chưa có bằng chứng xác thực về sự thách thức trực tiếp đối với vị trí lãnh đạo tối cao, song trong bối cảnh kinh tế Trung Quốc tiếp tục tăng trưởng chậm lại đã khiến nhiều nhà quan sát cho rằng Bắc Kinh có thể tìm cách chuyển hướng áp lực ra bên ngoài. Khi đó, Biển Đông trở thành lựa chọn phù hợp, vừa có giá trị biểu tượng tuyên truyền, vừa cho phép Bắc Kinh phô diễn sức mạnh mà chưa vượt qua lằn ranh xung đột toàn diện.
Phản ứng của khu vực
Các nước có tranh chấp
Đối với Việt Nam, lập trường xuyên suốt là kiên định khẳng định chủ quyền hợp pháp đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời phản đối mạnh mẽ mọi hành động đơn phương làm thay đổi nguyên trạng. Trên thực địa, Việt Nam đã tăng cường hiện diện thông qua lực lượng kiểm ngư và cảnh sát biển ở những khu vực nhạy cảm nhằm bảo đảm hoạt động khai thác kinh tế. Bên cạnh đó, Hà Nội tích cực vận dụng các kênh ngoại giao đa phương từ ASEAN cho tới Liên Hợp Quốc để nêu rõ lập trường, đồng thời kêu gọi giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình dựa trên luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982.
Philippines chính là quốc gia bày tỏ phản ứng mạnh mẽ nhất trong số các nước ASEAN. Manila không chỉ liên tục công khai các vụ việc Trung Quốc quấy rối, va chạm mà còn sẵn sàng đáp trả. Trên thực tế, sự kiện tại Đá Hoài Ân đã trở thành biểu tượng khi truyền thông Philippines tràn ngập hình ảnh căng cờ mà phía Philippines coi là trả đũa lại hành vi tương tự của Trung Quốc[13]. Đặc biệt, Philippines thắt chặt hơn nữa liên minh quân sự với Mỹ. Song song đó, chính quyền Tổng thống Ferdinand Marcos Jr còn thúc đẩy hợp tác quốc phòng với Nhật Bản, Úc và EU coi đó như công cụ răn đe nhằm kiềm chế các hành động leo thang từ phía Bắc Kinh.
Ngược lại, phản ứng của Malaysia và Brunei mang tính toán thận trọng hơn. Đối với Malaysia, chính quyền Kuala Lumpur tiếp tục theo đuổi chính sách cân bằng giữa hai trục lợi ích: bảo vệ quyền lợi hàng hải và duy trì quan hệ hợp tác kinh tế với Trung Quốc. Dù tránh đối đầu công khai, Malaysia vẫn âm thầm tăng cường lực lượng hiện diện tại khu vực bãi cạn Luconia để bảo vệ hoạt động khai thác dầu khí. Tương tự, Brunei tiếp tục lựa chọn chính sách “im lặng”, song song củng cố hợp tác kinh tế với Bắc Kinh, phản ánh sự ưu tiên ổn định trong quan hệ song phương hơn là đối đầu trực diện.
Mỹ và phương Tây
Giới lãnh đạo Mỹ không ngần ngại chỉ trích sự leo thang của Bắc Kinh ở Biển Đông. Ngay từ tháng 1/2025, Ngoại trưởng Marco Rubio đã công khai gọi các hành vi của Trung Quốc trên Biển Đông với những mô tả tiêu cực như “nguy hiểm và gây bất ổn”. Ông Rubio cũng cam kết thúc đẩy cơ chế phối hợp giữa Mỹ, Nhật Bản và Philippines, coi đó như nền tảng của một cấu trúc an ninh khu vực[14]. Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth một lần nữa nhấn mạnh thông điệp trên tại Đối thoại Shangri- 22 rằng:“Mỹ sẽ không nhân nhượng trước hành vi cưỡng ép của Trung Quốc ở Biển Đông và eo biển Đài Loan”[15]. Song song với các tuyên bố ngoại giao cứng rắn, Washington còn đẩy mạnh hiện diện quân sự tại Biển Đông ở mức cao hơn hẳn so với những năm trước. Nổi bật nhất với các hoạt động tập trận thường niên như Balikatan 2025 giữa Mỹ và Philippines được tổ chức với quy mô lớn nhất từ trước đến nay. Bên cạnh đó, nhiều khoa mục huấn luyện được thiết kế sát thực tiễn, mô phỏng kịch bản phòng thủ đảo và đối phó với các hành động cưỡng ép trên biển, gửi đi thông điệp rõ ràng về cam kết của Mỹ trong hỗ trợ đồng minh[16].
Lập trường xu hướng hành động của một số nước phương Tây thể hiện theo xu hướng giống với Mỹ đã phần nào phản ánh sự dịch chuyển từ vai trò quan sát sang can dự đối với khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Về mặt ngoại giao, Ngoại trưởng Anh David Lammy đề cao tầm quan trọng của việc tôn trọng UNCLOS 1982 để giải quyết tranh chấp. London công khai ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN trong tiến trình hoàn thiện COC[17]. Đức đưa ra lập trường mạnh mẽ hơn thường lệ, cảnh báo rằng các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông và eo biển Đài Loan có thể phá vỡ nguyên tắc của luật pháp quốc tế[18]. Pháp cho thấy sự cứng rắn khi triển khai tàu sân bay hạt nhân Charles de Gaulle tới Philippines nhưng khẳng định sự tham gia của châu Âu ở Biển Đông không nhằm đối đầu trực diện với Trung Quốc, mà hướng tới củng cố một trật tự mở và ổn định[19].
Các quốc gia khác
Về phía hai đối tác hàng đầu của ASEAN, Nhật Bản tiếp tục thể hiện vai trò nổi bật khi nâng cao mức độ hợp tác an ninh với các quốc gia Đông Nam Á đồng thời coi đó như phần thiết yếu của chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở. Sách trắng Quốc phòng năm 2025 của Tokyo cũng đề cập đến các hành vi của Trung Quốc tại Biển Đông trở thành mối quan ngại nghiêm trọng[20]. Hàn Quốc cũng thể hiện sự quan tâm nhiều hơn tới an ninh hàng hải khu vực. Các động thái này tuy khiêm tốn hơn so với Nhật Bản, song phản ánh sự dịch chuyển chiến lược nhằm mở rộng vai trò quốc tế của Hàn Quốc, đồng thời phù hợp với chính sách “Hướng Nam mới” của chính quyền Seoul.
Về phía các nước tầm trung, Úc thể hiện rõ lập trường gắn kết chặt chẽ với Mỹ và tham vấn với ASEAN để ứng phó với Trung Quốc. Mặt khác, Úc tái khẳng định vai trò thành viên tích cực trong những cơ chế hợp tác tiểu đa phương như Quad, Aukus. Ấn Độ gia tăng sự hiện diện một cách rõ rệt. Hải quân Ấn Độ tổ chức chuyến thăm xã giao tới Việt Nam và tập trận cùng Indonesia, đồng thời New Delhi còn thúc đẩy hợp tác quốc phòng song phương, điển hình như việc cung cấp tên lửa hành trình BrahMos cho Philippines. Điều này vừa khẳng định vai trò của Ấn Độ như một trụ cột trong cấu trúc an ninh khu vực, vừa gửi đi thông điệp chiến lược rằng New Delhi sẵn sàng thách thức các hành vi cưỡng ép trên biển.
Cuối cùng, Nga xuất hiện trở lại như một nhân tố mới trong bàn cờ Biển Đông năm 2025. Kể từ sau khi rút lực lượng quân sự khỏi căn cứ Cam Ranh, vai trò của Nga tại Đông Nam Á suy giảm đáng kể. Tuy nhiên, trong bối cảnh quan hệ giữa Nga với phương Tây rạn nứt sâu sắc sau cuộc khủng hoảng Ukraine, Nga đang tìm cách tái khẳng định sự hiện diện ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Những tín hiệu ngoại giao gần đây của Nga với Việt Nam, Lào cho thấy Moscow mong muốn trở thành một nhân tố ảnh hưởng mới ngoài Mỹ Trung Quốc trong các vấn đề an ninh khu vực.

Tác động tổng thể
Phản ứng của khu vực trước các động thái gia tăng hiện diện của Trung Quốc đang bộc lộ rõ một xu hướng hai chiều. Ở một cực, những quốc gia có tranh chấp trực tiếp như Việt Nam và Philippines chủ động củng cố lập trường pháp lý, đồng thời mở rộng hợp tác an ninh – quốc phòng với các đối tác ngoài khu vực. Các động thái này vừa nhằm tăng cường khả năng phòng vệ, vừa phát đi thông điệp rằng Bắc Kinh khó có thể độc quyền “luật chơi” ở Biển Đông. Ở cực kia, Malaysia và Brunei tiếp tục duy trì lập trường thận trọng, tránh đối đầu công khai với Bắc Kinh. Khoảng trống phối hợp trong ASEAN, sự ràng buộc lợi ích kinh tế của Trung Quốc khiến nỗ lực tìm kiếm tiếng nói chung gặp giới hạn.
Ngược lại, Mỹ cùng đồng minh tiếp tục cam kết bảo đảm cho nguyên tắc tự do hàng hải và hàng không, đồng thời duy trì vai trò đối trọng chiến lược trước Trung Quốc. Tuy nhiên, mức độ can dự ngày càng sâu này cũng mang theo nguy cơ đẩy căng thẳng lên một nấc thang mới, đặc biệt nếu xảy ra va chạm quân sự ngoài ý muốn. Cũng cần lưu ý đến vai trò của các chủ thể khác đang định vị lợi ích chiến lược tại Biển Đông. Đây chính là những biến số quan trọng định hình cục diện Biển Đông thời gian tới đồng thời tác động trực tiếp đến định hướng chính sách của Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyền và lợi ích hợp pháp trên biển.
Tổng hợp lại, những phản ứng nói trên tuy đã tạo áp lực nhất định buộc Bắc Kinh phải cân nhắc cách thức triển khai chính sách, nhưng chưa đủ mạnh để đảo ngược xu hướng Trung Quốc từng bước củng cố yêu sách ở Biển Đông.
Dự báo và hàm ý với Việt Nam
Trong bối cảnh căng thẳng khu vực leo thang sau vụ tàu Trung Quốc va chạm nhau khi rượt đuổi tàu Philippines. Sự cố này đẩy các bên liên quan vào thế khó trong việc duy trì ổn định khu vực. Trong ngắn hạn về cục diện Biển Đông những tháng cuối năm 2025 đến đầu năm 2026 bước vào chu kỳ vận động mới chủ yếu xoay quanh những vấn đề sau:
Trục động lực chính vẫn xoay quanh quan hệ Mỹ – Trung, mặc dù cả hai bên đều gia tăng sự hiện diện quân sự, đẩy mạnh tần suất tuần tra, song vẫn duy trì các cơ chế liên lạc khẩn để tránh xảy ra xung đột công khai. Thế nhưng, sự đối đầu này ngày càng mang tính dài hạn, tạo nên trạng thái “cạnh tranh có kiểm soát” nhưng không loại trừ khả năng bùng phát những sự cố ngoài ý muốn.
Ở chiều ngược lại, Trung Quốc vẫn duy trì chiến thuật “vùng xám” sử dụng kết hợp đa lực lượng chính thức và hoán cải hải cảnh, dân binh biển và các tàu khảo sát dầu khí để củng cố sự kiểm soát trên thực địa. Những khu vực trọng yếu như Trường Sa, Bãi Scarborough, bãi Tư Chính – Nam Côn Sơn hay Bãi Luconia tiếp tục trở thành tâm điểm các hoạt động áp sát, cản trở và phô trương sức mạnh. Song song với các động thái thực địa, Bắc Kinh cũng đẩy mạnh các biện pháp tuyên truyền pháp lý như ban hành bản đồ mới, công bố quy định hàng hải một chiều hoặc thiết lập “khu vực cấm đánh bắt” để củng cố tính chính danh cho yêu sách.
Các động thái này diễn ra trong lúc các liên kết tiểu đa phương ở khu vực ngày càng đan xen phức tạp. Mỹ phối hợp chặt chẽ hơn với Nhật Bản, Úc, Philippines, đồng thời tăng cường tập trận chung. Nhật, Ấn Độ, Hàn Quốc và một số nước châu Âu cũng đẩy mạnh hỗ trợ năng lực chấp pháp biển cho các quốc gia ASEAN có liên quan. Mức độ “quốc tế hóa” vấn đề Biển Đông vì thế ngày càng rõ nét, khiến Trung Quốc rơi vào thế vừa phải đối phó nhiều hướng, vừa tận dụng sự phân hóa nội bộ ASEAN để duy trì thế chủ động.
Do các tranh chấp vẫn là chủ yếu, vậy nên tiến trình đàm phán COC tới cuối năm nay vẫn khó hoàn tất. Nếu có tiến triển thì văn kiện cũng chỉ dừng ở mức nguyên tác mà ASEAN đã nêu từ lâu, thiếu sự ràng buộc cụ thể đối với các hoạt động trên thực địa. Trong khi đó, yếu tố kinh tế tiếp tục chi phối tình hình. Nhu cầu khai thác dầu khí thúc đẩy các nước có cớ tăng cường hiện diện trong vùng EEZ của nhau kéo theo nguy cơ va chạm. ASEAN tiếp tục duy trì đồng thuận nhưng khó đưa ra một lập trường chung mạnh mẽ do sự khác biệt lợi ích giữa các thành viên.
Những dự báo trên sẽ gợi mở ra cho Việt Nam nhiều hàm ý chính sách quan trọng. Trong giai đoạn tới, tình hình Biển Đông sẽ trở nên đặc biệt nhạy cảm khi trùng khớp với những sự kiện kỷ niệm đẩy cao tinh thần dân tộc của cả Việt Nam và Trung Quốc. Chính yếu tố này khiến mọi diễn biến trên thực địa, dù nhỏ, cũng dễ dàng bị phóng đại thành vấn đề chiến lược.
Thứ nhất, về mặt an ninh – quốc phòng, cần tiếp tục duy trì và củng cố hiện diện thực địa tạị hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Đây không chỉ là vấn đề chủ quyền mà còn là cơ sở pháp lý và chính trị để đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia trên biển. Để thực hiện mục tiêu này, chú trọng hơn nữa đầu tư cho lực lượng kiểm ngư và cảnh sát biển, nâng cao năng lực tuần tra trên các vùng biển trọng yếu. Song song với thúc đẩy hiện đại hóa công nghệ giám sát và hệ thống cảnh báo sớm, từ việc ứng dụng vệ tinh, UAV, đến các trung tâm dữ liệu hải dương tích hợp.
Thứ hai, trên phương diện pháp lý – ngoại giao, cần kiên định lấy UNCLOS 1982 làm nền tảng trong mọi tuyên bố và hành động. Kinh nghiệm từ vụ kiện trọng tài của Philippines năm 2013 cho thấy, công cụ pháp lý tuy không lập tức thay đổi hiện trạng trên thực địa, nhưng lại là con đường hữu hiệu chống lại các yêu sách phi lý. Đối với Việt Nam, việc chuẩn bị kỹ lưỡng hồ sơ pháp lý, công khai bằng chứng chủ quyền lịch sử sẽ củng cố thế chủ động trên mặt trận đàm phán. Ngoài ra, cần tính toán đến việc đề cập nhiều hơn vấn đề Biển Đông vào chương trình nghị sự toàn cầu.
Thứ ba, trong bối cảnh nhiều cường quốc đang chuyển trọng tâm chiến lược sang khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, khâu lựa chọn đối tác của Việt Nam cần được tiến hành một cách khéo léo. Việc mở rộng hợp tác với các đối tác bên ngoài mang lại nhiều giá trị, song tồn tại không ít rủi ro, đặc biệt nguy cơ bị lôi kéo vào vòng xoáy cạnh tranh nước lớn. Việc tiếp tục kiên định và vận dụng linh hoạt chính sách “bốn không” trong quốc phòngtrở thành nền tảng bảo đảm cho tính độc lập, tự chủ của đường lối đối ngoại.
Thứ tư, cần chú trọng hơn tới yếu tố lòng tin của nhân dân vào chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Các động thái bảo vệ chủ quyền phải gắn liền với việc củng cố sự ủng hộ trong nước, đồng thời khơi dậy tinh thần đại đoàn kết dân tộc. Truyền thông nhất quán, có định hướng về lập trường chủ quyền không chỉ giúp nâng cao nhận thức cộng đồng, đảm bảo môi trường “trong ấm, ngoài êm”, mà còn góp phần lan tỏa thông điệp chính nghĩa của Việt Nam tới cộng đồng quốc tế.
Cuối cùng, chính sách Biển Đông cần được xác định là một trụ cột trung tâm trong kỷ nguyên phát triển mới đất nước. Việc phát triển bền vững kinh tế biển, kết hợp giữa khai thác tài nguyên hợp lý với bảo vệ môi trường biển, sẽ vừa củng cố vị thế pháp lý, vừa nâng cao năng lực tự cường. Đồng thời, việc đẩy mạnh hợp tác khu vực trong các lĩnh vực ít nhạy cảm hơn, như nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm cứu nạn, ứng phó thảm họa cũng có thể tạo thêm sức mạnh mềm hỗ trợ cho lập trường của Việt Nam.
Việc bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia đòi hỏi một chiến lược toàn diện, cân bằng giữa cứng rắn và mềm dẻo, kết hợp giữa sức mạnh nội lực và sự ủng hộ quốc tế. Đó vừa là thách thức, nhưng cũng là cơ hội để Việt Nam khẳng định vai trò của một quốc gia ven biển có trách nhiệm, kiên định bảo vệ lợi ích hợp pháp, đồng thời đóng góp tích cực vào hòa bình, ổn định và hợp tác khu vực./.
*Chuỗi đảo thứ nhất đề cập đến chuỗi quần đảo lớn đầu tiên ở Thái Bình Dương tính từ bờ biển lục địa Đông Á. Nó chủ yếu bao gồm Quần đảo Nhật Bản, Quần đảo Ryukyu, Đài Loan, miền bắc Philipines và Borneo, do đó kéo dài suốt từ Bán đảo Kamchatka ở phía đông bắc đến Bán đảo Malai ở phía tây nam. Chuỗi đảo thứ nhất tạo thành một trong ba học thuyết về chuỗi đảo nằm trong chiến lược “chuỗi đảo” của chính sách đối ngoại Mỹ.
Tác giả: Phạm Quang Hiền
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của Nghiên cứu Chiến lược. Mọi trao đổi học thuật và các vấn đề khác, quý độc giả có thể liên hệ với ban biên tập qua địa chỉ mail: [email protected]
Tài liệu tham khảo
[1] Arpan Rai (2025), “South China Sea: Satellite images show military bases on Mischief Reef”, The Independent, https://www.independent.co.uk/asia/china/south-china-sea-satellite-images-military-bases-mischief-reef-b2798634.html
[2] Ngọc Đức (2025), “Mỹ tái bố trí hệ thống tên lửa trên lãnh thổ Philippines”, Báo Tuổi Trẻ, https://tuoitre.vn/my-tai-bo-tri-he-thong-ten-lua-tren-lanh-tho-philippines-2025012315434127.htm
[3] Henry Zwarts (2025), “Tracking militarisation in the South China Sea”, ABC News Australia, https://www.abc.net.au/news/2025-07-30/tracking-militarisation-in-the-south-china-sea/105473948
[4] Greg Torode (2025), “China’s most advanced bombers seen on disputed South China Sea island”, Reuters, https://www.reuters.com/business/aerospace-defense/chinas-most-advanced-bombers-seen-disputed-south-china-sea-island-2025-05-28/
[5] Chen Zhuo (2025), “PLA Navy conducts drills in South China Sea”, China Military Online, http://eng.chinamil.com.cn/CHINA_209163/TopStories_209189/16371129.html
[6] Jonathan Chin (2025), “Taiwan raises concerns over Chinese military buildup”, Taipei Times, https://www.taipeitimes.com/News/taiwan/archives/2025/06/29/2003839435
[7] Davidson Helen (2025), “China’s landing barges: What do Shuqiao ships mean for Taiwan?”, The Guardian, https://www.theguardian.com/world/2025/mar/20/china-landing-barges-shuqiao-ships-what-does-this-mean-for-taiwan
[8] Rebecca Ratcliffe (2024), “China building counter-stealth radar on disputed South China Sea reef, satellite pictures suggest”, The Guardian, https://www.theguardian.com/world/2024/oct/26/china-building-counter-stealth-radar-on-disputed-south-china-sea-reef-satellite-pictures-suggest
[9] Gregory Poling (2025), “Beijing’s South China Sea campaign of intimidation has run aground”, War on the Rocks, https://warontherocks.com/2025/07/beijings-south-china-sea-campaign-of-intimidation-has-run-aground/
[10] Priam Nepomuceno (2025), “Philippines reaffirms stance on South China Sea disputes”, PNA, https://www.pna.gov.ph/articles/1245262
[11] U.S. Energy Information Administration (2025), “South China Sea”, EIA International, https://www.eia.gov/international/analysis/regions-of-interest/South_China_Sea
[12] Jov Onsat (2025), “CNOOC aims to exceed 2 mmboed in production this year”, Rigzone, https://www.rigzone.com/news/cnooc_aims_to_exceed_2_mmboed_in_production_this_year-23-jan-2025-179403-article/
[13] Northrop, Katrina & Li, Lyric (2025), “China and Philippines both claim control of disputed Sandy Cay reef”, The Washington Post, https://www.washingtonpost.com/world/2025/04/28/china-philippines-sandy-cay-reef-dispute
[14] Reuters (2025), “Rubio says US committed to Philippines in call about China’s dangerous actions”, https://www.reuters.com/world/rubio-says-us-committed-philippines-call-about-chinas-dangerous-actions-2025-01-23/
[15] U.S. Department of Defense (2025), “Remarks by Secretary of Defense Pete Hegseth at the 2025 Shangri-La Dialogue”, Defense.gov, https://www.defense.gov/News/Speeches/Speech/article/4202494/remarks-by-secretary-of-defense-pete-hegseth-at-the-2025-shangri-la-dialogue-in/
[16] Indo-Pacific Defense Forum (2025), “Balikatan 2025 highlights increasingly complex military training in Indo-Pacific”, IP Defense Forum, https://ipdefenseforum.com/2025/05/balikatan-2025-highlights-increasingly-complex-military-training-in-indo-pacific/
[17] Reuters (2025), “UK concerned by Chinese activity in South China Sea, says foreign minister”, Reuters, https://www.reuters.com/world/uk-concerned-by-chinese-activity-south-china-sea-says-foreign-minister-2025-03-10/
[18] Reuters (2025), “German foreign minister criticises aggressive China ahead of trip to Japan”, Reuters, https://www.reuters.com/world/china/german-foreign-minister-criticises-aggressive-china-ahead-trip-japan-2025-08-17/
[19] Newsweek (2025), “France’s Charles de Gaulle aircraft carrier joins Philippines naval exercise in South China Sea”, Newsweek, https://www.newsweek.com/france-news-charles-de-gaulle-aircraft-carrier-philippines-naval-exercise-south-china-sea-2035154
[20] Bộ Quốc phòng Nhật Bản (2025), “Defense of Japan 2025 Digest”, MOD Japan, http://xn--trchmod-8ya.go.jp/j/press/wp/wp2025/pdf/DOJ2025_Digest_EN.pdf