Nghiên Cứu Chiến Lược
  • Trang Chủ
  • Lĩnh vực
    • Kinh tế
    • Xã hội
    • Quốc phòng – an ninh
    • Chính trị
  • Khu vực
    • Châu Á
    • Châu Âu
    • Châu Mỹ
    • Châu Phi
    • Châu Đại Dương
  • Phân tích
    • Ý kiến độc giả
    • Chuyên gia
  • Thư viện
    • Sách
    • Tạp chí
    • Media
  • Podcasts
  • Giới thiệu
    • Ban Biên tập
    • Dịch giả
    • Đăng ký cộng tác
    • Thông báo
No Result
View All Result
  • Trang Chủ
  • Lĩnh vực
    • Kinh tế
    • Xã hội
    • Quốc phòng – an ninh
    • Chính trị
  • Khu vực
    • Châu Á
    • Châu Âu
    • Châu Mỹ
    • Châu Phi
    • Châu Đại Dương
  • Phân tích
    • Ý kiến độc giả
    • Chuyên gia
  • Thư viện
    • Sách
    • Tạp chí
    • Media
  • Podcasts
  • Giới thiệu
    • Ban Biên tập
    • Dịch giả
    • Đăng ký cộng tác
    • Thông báo
No Result
View All Result
Nghiên Cứu Chiến Lược
No Result
View All Result
Home Lĩnh vực Chính trị

Giới hạn cấu trúc trong sự trỗi dậy của Trung Hoa: Thách thức lâu dài đối với Giấc mộng Trung Hoa

07/11/2025
in Chính trị, Phân tích
A A
0
Giới hạn cấu trúc trong sự trỗi dậy của Trung Hoa: Thách thức lâu dài đối với Giấc mộng Trung Hoa
0
SHARES
39
VIEWS
Share on FacebookShare on Twitter

Giới thiệu

Trong thế kỷ XXI, cạnh tranh giữa Trung Quốc và Mỹ đã trở thành trung tâm của chính trị toàn cầu. Từ xung đột thương mại – công nghệ, hai nước hiện nay đang đối đầu toàn diện về kinh tế, an ninh và tư tưởng. Dù Trung Quốc tăng trưởng nhanh và hiện đại hóa mạnh mẽ, khả năng chuyển hóa sức mạnh vật chất thành ảnh hưởng chiến lược vẫn bị giới hạn. Tuy nhiên, câu hỏi nên đặt không còn là “Trung Quốc có trỗi dậy hay không”, mà là “vì sao sự trỗi dậy ấy có giới hạn”. Bài viết cho rằng nguyên nhân nằm ở những giới hạn cấu trúc về địa lý, kinh tế chính trị, liên minh và tính chính danh tư tưởng, đây là những yếu tố ngăn Trung Quốc đạt được bá quyền kiểu Pax Americana. Dựa trên chủ nghĩa hiện thực cấu trúc, bài viết lý giải rằng hành vi chiến lược của Bắc Kinh phản ánh cấu trúc quyền lực vô chính phủ và các yếu tố bất cân xứng nội tại của chính nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Lập luận của bài viết được triển khai qua bốn khía cạnh: nghịch lý của Sáng kiến Vành đai và Con đường, hạn chế địa – kinh tế (“Trung Quốc không có California”), sự thiếu hụt liên minh, và giới hạn tư tưởng, công nghệ. Qua đó, cho thấy sự trỗi dậy của Trung Quốc tuy mang tính chuyển đổi nhưng chưa đủ để tái định hình trật tự quốc tế đương đại.

Những ràng buộc về mặt cấu trúc đối với sự trỗi dậy của Trung Quốc

Theo quan điểm của chủ nghĩa hiện thực cấu trúc, sự trỗi dậy của Trung Quốc không phải là sự tích lũy năng lực tuyến tính, mà là một quá trình bị ràng buộc bởi logic của chính hệ thống quốc tế. Mô hình tân hiện thực của Waltz nhấn mạnh rằng cấu trúc của tình trạng vô chính phủ, sự phân bổ năng lực và cán cân quyền lực cùng nhau quyết định phạm vi hành động của các cường quốc.[1] Theo nghĩa này, nỗ lực của Trung Quốc nhằm đạt được sự ngang bằng với Mỹ gặp phải những giới hạn về mặt hệ thống, địa lý và lịch sử mà các chính sách hay tư tưởng không dễ dàng vượt qua.

Những ràng buộc về mặt hệ thống: trật tự vô chính phủ và cân bằng quyền lực

Ở cấp độ toàn cầu, hệ thống quốc tế vẫn ổn định về mặt thứ bậc dưới sự thống trị phần nào của Mỹ, ngay cả khi trật tự thế giới có xu hướng hướng trở nên đa cực. Mỹ duy trì một mạng lưới liên minh dày đặc với NATO ở châu Âu, các hiệp ước an ninh song phương ở Đông Á và các khuôn khổ răn đe mở rộng, điều này giúp thể chế hóa vai trò lãnh đạo của nước này và hạn chế không gian hoạt động của Trung Quốc. Chủ nghĩa hiện thực cấu trúc dự đoán rằng những nỗ lực của một cường quốc đang trỗi dậy nhằm thay đổi cán cân này sẽ kích động các liên minh đối trọng giữa các cường quốc hiện hữu.[2] Những nỗ lực của Trung Quốc nhằm triển khai sức mạnh ra ngoài khu vực ngoại vi gần kề đã tạo ra những phản ứng cân bằng trên nhiều phạm vi đối đầu: Đối thoại An ninh Tứ giác (Quad), hiệp ước AUKUS, và việc khôi phục sự phối hợp an ninh giữa Mỹ – Nhật Bản – Philippines – Hàn Quốc.

Không giống như Liên Xô, vốn dẫn đầu một khối thống nhất về mặt tư tưởng, Trung Quốc phải đối mặt với bất lợi về mặt cấu trúc là thiếu các đồng minh đáng tin cậy. Mối quan hệ của Trung Quốc với Nga, Iran, Triều Tiên hoặc Pakistan mang tính giao dịch và thúc đẩy bởi lợi ích, thay vì được thể chế hóa thông qua các cam kết phòng thủ chung. Kể cả khi họ liên kết chặt chẽ với nhau, điều này cũng đặt ra vấn đề mới là những nguy cơ bị lôi kéo vào các cuộc xung đột do lợi ích của đồng minh thúc đẩy hơn là lợi ích của chính họ.[3] Sự nghịch lý về chiều sâu liên minh này hạn chế khả năng của Trung Quốc trong việc gánh vác chi phí an ninh hoặc duy trì các căn cứ ở nước ngoài. Về mặt cấu trúc, Mỹ nắm giữ một mạng lưới quyền lực vượt trội, trong khi Trung Quốc vẫn là một quốc gia bị bao vây bởi các nước láng giềng vốn thận trọng hoặc có thái độ thù địch với nước này.[4]

“Trung Quốc không có California”

Nhận xét của Stephen Kotkin rằng “Trung Quốc không có California” (China has no California)[5] phản ánh sự mất cân bằng sâu sắc về mặt cấu trúc giữa địa lý, kinh tế và khả năng triển khai quyền lực (power projection). Sự thịnh vượng của các tỉnh ven biển và sự kém phát triển trong nội địa của Trung Quốc phản ánh một nền kinh tế kép làm phức tạp thêm chiến lược của nhà nước. Vùng duyên hải phía đông giàu có là động lực cho tăng trưởng dựa vào xuất khẩu của Trung Quốc gắn chặt với thị trường toàn cầu phụ thuộc vào các tuyến đường thương mại hàng hải, và do đó dễ bị phong tỏa. Ngược lại, vùng nội địa phía tây (Tân Cương, Tây Tạng, Vân Nam) có tầm quan trọng chiến lược đối với chiều sâu lục địa và khả năng tiếp cận các nguồn tài nguyên phong phú, nhưng hy vọng nơi đây vẫn còn mong manh trên khía cạnh kinh tế và căng thẳng sắc tộc.[6]

Theo quan điểm hiện thực cấu trúc, sự mất cân bằng nội bộ này hạn chế khả năng huy động sức mạnh ra bên ngoài của Trung Quốc. Nhà nước phải liên tục khai thác thặng dư từ các vùng ven biển để trợ cấp cho kiểm soát nội bộ và an ninh biên giới, đây là một yêu cầu cấp thiết làm loãng các nguồn lực sẵn có cho việc triển khai quyền lực ra toàn cầu. Hơn nữa, sự bao vây địa chính trị đối với Trung Quốc giới hạn nước này ở Chuỗi đảo thứ nhất ở phía đông và những rào cản đến từ các dãy núi Á – Âu ở phía tây đặt ra một tình thế tiến thoái lưỡng nan về hàng hải. Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLAN) khao khát trở thành một lực lượng hải quân biển xanh, nhưng lại thiếu mạng lưới căn cứ an toàn và chiều sâu hàng hải như Hải quân Mỹ. Việc thiết lập các căn cứ ở nước ngoài thông qua Sáng kiến ​​Vành đai và Con đường (BRI) đã tỏ ra khó khăn khi xét trên sự phức tạp về kỹ thuật và chính trị của hậu cần hải quân hiện đại. Kết quả là, sức mạnh khu vực của Trung Quốc không thể chuyển hóa thành tầm ảnh hưởng toàn cầu, đây là một triệu chứng điển hình của cái mà Giáo sư John Mearsheimer gọi là “sức mạnh ngăn chặn của nước”.[7]

Các trường hợp điển hình và bằng chứng thực nghiệm: Kiểm tra sự giới hạn trong quyền lực cấu trúc của Trung Quốc

Trong khi chủ nghĩa hiện thực cấu trúc cung cấp một góc nhìn lý thuyết để hiểu những giới hạn mang tính hệ thống và địa lý trong quá trình trỗi dậy của Trung Quốc, bằng chứng thực nghiệm từ các nỗ lực đại chiến lược của nước này càng minh họa rõ hơn cách những hạn chế được nêu bật lên trong thực tế. Ba trường hợp được lựa chọn để quan sát bao gồm: Sáng kiến ​​Vành đai và Con đường (BRI), việc hiện đại hóa Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân (PLAN) và những nỗ lực xây dựng liên minh của Trung Quốc sẽ làm nổi bật khoảng cách dai dẳng giữa tiềm năng và hiện thực hóa trong quá trình chuyển giao quyền lực của Bắc Kinh.

Sáng kiến ​​Vành đai và con đường: Vượt tầm kiểm soát kinh tế dưới áp lực cơ cấu

Ra mắt năm 2013, Sáng kiến Vành đai và con đường (từ đây gọi là BRI) được định hình như một nền tảng mang tính tầm nhìn cho kết nối và hợp tác “cùng có lợi”, gắn kết thặng dư công nghiệp của Trung Quốc với nhu cầu cơ sở hạ tầng toàn cầu. Tuy nhiên, xét trên góc độ hiện thực, sáng kiến ​​này không phản ánh sự bành trướng đầy mạnh mẽ của một thế lực bá quyền, mà là một sự ép buộc mang tính cơ cấu nhằm chuyển giao những mâu thuẫn nội bộ ra bên ngoài.

Đến cuối những năm 2000, Trung Quốc phải đối mặt với cuộc khủng hoảng tích lũy quá mức về một “công suất nhàn rỗi” khổng lồ trong các ngành thép, xi măng và xây dựng, cùng với việc vốn nhà nước phình to và do đó đi tìm kiếm các kênh đầu ra sinh lời.[8] Từ đó, BRI nổi lên như một cơ chế ổn định nội bộ, cho phép Bắc Kinh duy trì tăng trưởng thông qua đầu tư nước ngoài do nhà nước chỉ đạo. Tuy nhiên, chiến lược này mang trong mình những rủi ro hệ thống nội tại. Không giống như Kế hoạch Marshall của Mỹ thời hậu Chiến tranh thế giới lần thứ hai, vốn được neo giữ bởi các thể chế, điều kiện và nỗ lực xây dựng liên minh, việc cho vay của Trung Quốc lại thiếu minh bạch, mang tính song phương và mang tính lợi ích chính trị.[9]

Thực tế cho thấy điều này đã dẫn đến tỷ lệ nợ xấu cao ở các quốc gia đối tác. Một báo cáo của AidData năm 2023 đã xác định hơn 385 tỷ đô la “nợ ẩn” liên quan đến các khoản vay của Trung Quốc, với các vụ vỡ nợ hoặc đàm phán lại ở các quốc gia từ Sri Lanka đến Zambia.[10] Thay vì vun đắp lòng biết ơn, những kết quả này lại gây ra sự phẫn nộ và phản ứng tiêu cực về uy tín, thể hiện qua các luận điệu “ngoại giao bẫy nợ” và sự hoài nghi ngày càng tăng ngay cả trong số các đối tác lâu năm như Pakistan và Malaysia.[11]

Nói một cách thực tế, BRI thể hiện nghịch lý của việc thể hiện quyền lực thông qua sự phụ thuộc. Ảnh hưởng kinh tế, khi không đi kèm với niềm tin thể chế hoặc tính chính danh của quyền lực mềm, sẽ tạo ra hành vi “cân bằng” hơn là sự liên kết. Hơn nữa, khía cạnh hậu cần, sử dụng các cảng BRI làm chỗ đứng tiềm năng cho hải quân đã được chứng minh là vô cùng hạn chế. Các cơ sở như Gwadar (Pakistan) hoặc Djibouti phục vụ các chức năng thương mại hoặc hậu cần nhưng không đủ để trở thành các căn cứ quân sự toàn diện.[12] Các hoạt động “biển xanh” thời hiện đại đòi hỏi cơ sở hạ tầng nhiên liệu, sửa chữa và hệ thống tình báo bền vững, những thứ không thể được xây dựng thông qua các dự án đặc thù.

Do đó, BRI là ví dụ điển hình về việc các yêu cầu kinh tế nội bộ xung đột với sự phản kháng mang tính hệ thống từ bên ngoài. Thay vì thay đổi cấu trúc quyền lực, nó củng cố nhận thức về Trung Quốc như một chủ thể nhà nước đi tìm kiếm sự thống trị mà không có sự quản trị chung.

Vấn đề hải quân biển xanh: địa lý là định mệnh

Một tham vọng cốt lõi trong đại chiến lược của Trung Quốc là chuyển đổi Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân (từ đây gọi là PLAN) thành một lực lượng biển xanh có khả năng vươn ra toàn cầu. Tuy nhiên, tham vọng này lại xung đột trực tiếp với thực tế về cấu trúc – địa lý.

Mặc dù đã được hiện đại hóa đáng kể thông qua qua các thành tựu lớn: hạ thủy tàu sân bay, tàu khu trục tiên tiến và tàu ngầm hạt nhân, nhưng về mặt địa chiến lược, PLAN vẫn bị giới hạn bởi Chuỗi đảo thứ nhất, trải dài từ Nhật Bản qua Đài Loan đến Philippines.[13] Chuỗi đảo này vừa là rào cản vật lý vừa là vành đai chính trị do các quốc gia liên kết với Mỹ và các mạng lưới giám sát chi phối. Khái niệm “sức mạnh ngăn chặn của nước” của Mearsheimer đặc biệt phù hợp: việc triển khai lực lượng trên biển qua các điểm nghẽn tranh chấp (ví dụ: Eo biển Đài Loan, Biển Đông) không chỉ đòi hỏi trang thiết bị mà còn cả căn cứ an toàn, hậu cần và khả năng tiếp cận của đồng minh, những điều kiện mà Trung Quốc phần lớn còn thiếu.

Những nỗ lực thiết lập các căn cứ như vậy thông qua BRI đã vấp phải sự phản đối. Có thể kể đến là các nỗ lực nhằm đảm bảo quyền sử dụng cảng biển lưỡng dụng ở Campuchia (Căn cứ Hải quân Ream) và Quần đảo Solomon đã vấp phải sự phản đối dữ dội từ Mỹ và các bên liên quan trong khu vực, làm nổi bật những giới hạn chính trị trong tầm với của Trung Quốc.[14] Ngay cả căn cứ ở Djibouti, cơ sở quân sự hải ngoại duy nhất được xác nhận cũng hoạt động dưới sự ràng buộc của quốc gia sở tại và không thể duy trì các tàu chiến chủ lực quy mô lớn.[15]

Từ góc nhìn hiện thực cấu trúc, những khó khăn này xuất phát từ địa lý bị bao vây và lợi thế mạng lưới của trật tự hàng hải Mỹ. Mỹ kiểm soát một mạng lưới các căn cứ toàn cầu (từ Yokosuka đến Diego Garcia), được củng cố bởi các liên minh và các thỏa thuận về quy chế lực lượng (SOFA). Ngược lại, Trung Quốc hoạt động trong một phạm vi hẹp của các vùng biển tranh chấp và hậu cần mong manh. Do đó, sức mạnh hải quân của họ vẫn mạnh mẽ trong khu vực nhưng bị giới hạn về mặt chiến lược, không thể đảm bảo các tuyến đường biển vượt ra ngoài phạm vi trực tiếp của mình.

Hơn nữa, nền kinh tế chính trị trong nước của việc mở rộng hải quân cũng đặt ra những hạn chế khác. PLAN cạnh tranh với Lục quân và Không quân về tài chính và ưu tiên hành chính trong bộ máy tập trung của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Những cạnh tranh thể chế này làm chậm quá trình đổi mới học thuyết và chuyển hướng nguồn lực vào sự ổn định chế độ thay vì năng lực viễn chinh.[16] [17]

Về bản chất, quá trình hiện đại hóa hàng hải của Trung Quốc minh họa cho những hạn chế của việc chuyển đổi quyền lực: tiến bộ công nghệ không thể bù đắp hoàn toàn cho địa lý cấu trúc. Nếu không có căn cứ an toàn và chiều sâu liên minh, tham vọng hải quân của Bắc Kinh vẫn chỉ là một mục tiêu không bền vững.

Giới hạn của quá trình chuyển giao quyền lực ở Trung Quốc và những hàm ý chiến lược

Sự trỗi dậy của Trung Quốc là một trong những câu chuyện địa chính trị nổi bật nhất của thế kỷ 21. Tuy nhiên, theo quan điểm hiện thực cấu trúc, sự trỗi dậy này không nhất thiết đòi hỏi một quá trình chuyển giao quyền lực thành công. Các lý thuyết về chuyển giao quyền lực (Organski, 1958; Gilpin, 1981) cho rằng sự ổn định của hệ thống bị đe dọa khi một cường quốc đang trỗi dậy đạt đến vị thế ngang bằng với một bá chủ và tìm cách viết lại các quy tắc của trật tự.[18] Tuy nhiên, như phân tích trước đó cho thấy, sự trỗi dậy của Trung Quốc bị hạn chế bởi những rào cản cấu trúc lâu dài về địa chính trị, thể chế và lịch sử vốn đã ngăn cản Trung Quốc trong việc chuyển đổi quyền lực vật chất thành sự thống trị mang tính hệ thống.

Phần này thảo luận về những hạn chế kể trên đặt trong bối cảnh ba động lực gắn chặt với nhau: một là, những giới hạn của quá trình chuyển giao quyền lực trong một trật tự tự do cố hữu. Hai là, những mâu thuẫn của mô hình “kinh tế xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc thời đại mới” dưới áp lực hệ thống. Ba là, những hàm ý đối với các kiến ​​trúc an ninh khu vực và toàn cầu.

Logic cấu trúc của chính sách kiềm chế: lý do sự cân bằng vẫn là khó nắm bắt đối với Trung Quốc

Trong chủ nghĩa hiện thực cổ điển, cán cân quyền lực hoạt động như một yếu tố tự động ổn định hệ thống quốc tế.[19] Keneth Waltz lập luận rằng trong tình trạng hỗn loạn, các quốc gia phản ứng với sự tập trung quyền lực bằng cách hình thành các liên minh đối trọng để khôi phục trạng thái cân bằng.[20] Logic này rõ ràng đã chống lại sự trỗi dậy của Trung Quốc.

Không giống như thời Chiến tranh Lạnh, nơi ý thức hệ lưỡng cực cho phép cả hai siêu cường củng cố các khối riêng biệt, trật tự hậu Chiến tranh Lạnh về mặt chức năng là bất đối xứng, Mỹ vẫn nằm trong một mạng lưới các liên minh được thể chế hóa, trong khi Trung Quốc hoạt động như một đối thủ đơn lẻ trong một mạng lưới dày đặc các cấu trúc do Mỹ lãnh đạo. Trật tự tự do do Mỹ làm trụ cột được xây dựng dựa trên sự phụ thuộc lẫn nhau về tài chính, kiểm soát hàng hải và sự thống trị về công nghệ, tất cả những điều này tạo ra cái mà G. John Ikenberry gọi là “hiệu ứng khóa cứng của bá quyền tự do”.[21] Trung Quốc hưởng lợi từ sự cởi mở về kinh tế của trật tự này nhưng đồng thời tìm cách làm suy yếu sự thống trị chiến lược của nó.[22]

Tuy nhiên, chủ nghĩa hiện thực cấu trúc cho rằng chủ nghĩa xét lại trong một trật tự mở vốn dĩ là rất giới hạn.[23] Chính sự phụ thuộc lẫn nhau đã tạo điều kiện cho sự trỗi dậy kinh tế của Trung Quốc cũng hạn chế quyền tự chủ chiến lược của nước này. Mô hình thúc đẩy xuất khẩu của Trung Quốc phụ thuộc vào các tuyến đường thương mại hàng hải do các thể chế với Mỹ làm lãnh đạo đảm bảo, và đồng tiền của nước này vẫn phụ thuộc vào kiến ​​trúc tài chính lấy đồng đô la làm trung tâm. Những nỗ lực tạo ra các hệ thống song song, chẳng hạn như Ngân hàng Đầu tư Cơ sở Hạ tầng Châu Á (AIIB) hay mạng lưới thanh toán bằng đồng nhân dân tệ chỉ mang tính tác động hệ thống hạn chế.

Theo nghĩa này, sự trỗi dậy của Trung Quốc thậm chí còn củng cố, chứ không thể lật đổ tính trung tâm về mặt cấu trúc của trật tự thế giới tự do. Các hệ thống phân cấp ngầm của hệ thống – công nghệ, thể chế và chuẩn mực tiếp tục ưu tiên cho Mỹ. Trung Quốc có thể thay đổi sự phân bổ năng lực, nhưng nước này chưa định nghĩa lại cấu trúc tương tác quyết định trật tự toàn cầu.

Thiếu hụt liên minh và sự dai dẳng trong khả năng phục hồi của trật tự đơn cực

Một hạn chế dai dẳng khác là sự thiếu hụt liên minh của Trung Quốc. Như đã trình bày ở phần trước, các quan hệ đối tác bên ngoài của Bắc Kinh thiếu sự gắn kết và chiều sâu thể chế cần thiết cho việc cân bằng hiệu quả. Ngược lại, Mỹ duy trì cái mà Mearsheimer gọi là “kiến trúc toàn cầu của cân bằng ngoài khơi”,[24] một chiến lược cho phép nước này thể hiện sức mạnh thông qua các đồng minh khu vực đồng thời giảm thiểu đối đầu trực tiếp.

Việc Trung Quốc không hình thành được các liên minh đáng tin cậy phản ánh cả di sản về cấu trúc lẫn văn hóa. Trong lịch sử, ngoại giao Trung Quốc mang tính thứ bậc, được xây dựng dựa trên quan hệ triều cống hơn là phòng thủ tập thể.[25] Mô hình này vẫn tồn tại trong thực tiễn hiện đại: các mối quan hệ đối tác vẫn mang tính song phương, mờ ám và bất đối xứng. Ngay cả sự tham gia của Trung Quốc vào các diễn đàn đa phương như BRICS hay Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO) cũng không tạo ra sự hội nhập có ý nghĩa. Các thể chế này hoạt động như những diễn đàn phối hợp, chứ không phải là liên minh cam kết.

Hệ quả thực tế rất rõ ràng, trong một hệ thống hỗn loạn, một quốc gia không có đồng minh phải tự cân bằng. Sự tự lực này làm gia tăng bất ổn và sự bành trướng quá mức. Bất chấp mọi năng lực đang phát triển, Trung Quốc vẫn bị cô lập về mặt chiến lược, trường hợp của Trung Quốc là điển hình cho một cường quốc lục địa đang tìm kiếm sự bành trướng trên biển mà không có chiều sâu liên minh. Trong khi đó, Mỹ đã tận dụng các mạng lưới liên minh để duy trì phần nào “tính đơn cực” của trật tự thế giới mà các học giả như Brooks và Wohlforth mô tả là “không thể sánh được bằng cách gia nhập các liên minh hoặc xây dựng quân đội”.[26] khả năng của một bá chủ duy trì sự thống trị ngay cả trong bối cảnh bị suy thoái tương đối.

Giới hạn của quan hệ đối tác chiến lược: Nga và Triều Tiên

Mặc dù quan hệ đối tác giữa Trung Quốc với Nga và Triều Tiên dường như củng cố chiều sâu chiến lược của nước này, nhưng chúng cũng bộc lộ những điểm yếu về mặt cấu trúc. Cuộc xung đột của Nga ở Ukraine đã làm sâu sắc thêm sự phụ thuộc của nước này vào Trung Quốc, nhưng mối quan hệ này vẫn mang tính giao dịch hơn là thể chế hóa. Sự bất cân xứng về sức mạnh kinh tế và những lợi ích dài hạn khác biệt ngăn cản sự hình thành một liên minh gắn kết tương đương với NATO.

Tương tự, sự ủng hộ của Bắc Kinh dành cho Triều Tiên đóng vai trò như một vùng đệm chống lại ảnh hưởng của Mỹ ở Đông Bắc Á, nhưng sự khó lường của Bình Nhưỡng thường làm suy yếu ngoại giao khu vực của Trung Quốc. Thay vì một liên minh ổn định, Trung Quốc phải đối mặt với cái mà những người theo chủ nghĩa hiện thực cấu trúc gọi là “yếu tố an ninh bên ngoài tiêu cực”: các đồng minh tạo ra xung đột chiến lược và tổn thất về danh tiếng.[27]

So sánh trong lịch sử, ngay cả Đế chế La Mã, thường được mô tả như một cỗ máy đế quốc tập trung nhưng thực chất là một liên minh rộng lớn và bền vững đáng kinh ngạc.[28] Đế chế này thống nhất các tỉnh, các vương quốc chư hầu và các chính thể đồng minh trong một khuôn khổ chung về luật pháp, quyền công dân và hội nhập kinh tế. Mô hình “liên minh đế quốc” này cho phép La Mã tiếp thu nhận sự đa dạng, đồng thời thể hiện quyền lực ổn định trên khắp Địa Trung Hải trong nhiều thế kỷ.

Ngược lại, Trung Quốc chưa bao giờ xây dựng một logic liên minh hướng ngoại và hội nhập như vậy. Trật tự chư hầu của họ nhấn mạnh vào hệ thống phân cấp theo chiều dọc và tính trung tâm của nền văn minh hơn là sự tương hỗ. Do đó, truyền thống chiến lược của Trung Quốc thiếu kinh nghiệm thể chế trong việc duy trì các liên minh ngang hàng. Sự thiếu sót mang tính lịch sử này tiếp tục định hình nền ngoại giao hiện đại của họ, nơi các mối quan hệ với các đối tác như Nga và Triều Tiên vẫn mang tính giao dịch, bất đối xứng và cuối cùng là mong manh. Từ góc nhìn hiện thực cấu trúc, sự tương phản này nhấn mạnh rằng bá quyền bền vững không chỉ đòi hỏi sức mạnh vật chất mà còn cả khả năng xây dựng và duy trì một liên minh nội tại hóa các lợi ích chung, đây là điều mà đế chế La Mã đã làm vô cùng tốt, còn Trung Quốc vẫn đang chật vật để đạt được.

Do đó, việc xây dựng liên minh của Trung Quốc vẫn bị hạn chế bởi lịch sử, hệ tư tưởng và cấu trúc hệ thống, một lần nữa khẳng định tiền đề của chủ nghĩa hiện thực rằng sự cân bằng thực sự không đòi hỏi một hệ tư tưởng chung, mà là những lợi ích đáng tin cậy và đối xứng.

Hàm ý chiến lược: từ đa cực đến kiềm chế có kiểm soát

Kết quả tích lũy của những hạn chế này là một thế giới không phải của các cực bình đẳng, mà là đa cực bất đối xứng, một hệ thống mà Trung Quốc đủ mạnh để thách thức, nhưng không thể thay thế vị thế dẫn đầu của Mỹ. Trong tình thế này, Trung Quốc hoạt động như một lãnh đạo khu vực bị mắc kẹt trong sự phụ thuộc lẫn nhau toàn cầu, trong khi Mỹ vẫn duy trì vai trò lãnh đạo hệ thống thông qua đòn bẩy thể chế và liên minh.

Từ quan điểm hiện thực, cấu hình này vốn đã ổn định. Các rào cản về cấu trúc – địa lý, sự bất đối xứng của liên minh và sức ì thể chế đã ngăn cản quá trình chuyển giao quyền lực hoàn toàn, do đó làm giảm nguy cơ chiến tranh bá quyền được dự đoán bởi lý thuyết của Organski. Thay vào đó, điều nổi lên là sự cùng tồn tại và cạnh tranh: một sự cạnh tranh bền bỉ và lành mạnh được duy trì và giới hạn bởi sự phụ thuộc lẫn nhau.

Đối với các chủ thể khu vực, đặc biệt là ở Đông Á và Đông Nam Á, động lực này tạo ra áp lực kép. Một mặt, các quốc gia được hưởng lợi từ sự hội nhập kinh tế của Trung Quốc, mặt khác, họ dựa vào các đảm bảo an ninh của Mỹ để duy trì quyền tự chủ chiến lược. Kết quả là hành vi phòng ngừa rủi ro, điển hình là Việt Nam, Indonesia và Singapore cân bằng giữa chủ nghĩa thực dụng kinh tế với đa dạng hóa quốc phòng.

Về mặt cấu trúc, điều này cho thấy sự trỗi dậy của Trung Quốc sẽ không tạo ra một thế lưỡng cực mới, mà là một sự phân mảnh có kiểm soát của trật tự hiện có. Hệ thống do Mỹ lãnh đạo thích nghi bằng cách hội nhập một phần, cho phép Trung Quốc có sự lãnh đạo hạn chế về tài chính phát triển hoặc thương mại khu vực, đồng thời hạn chế quyền tự do chiến lược của nước này. Theo nghĩa này, thế giới hậu 2020 giống như một “thế đơn cực phân tầng”, nơi nhiều trung tâm quyền lực tồn tại trong một khuôn khổ ổn định bá quyền.

Sự ràng buộc của quyền lực

Cuối cùng, tình thế khó khăn của Trung Quốc phản ánh nghịch lý cốt lõi của chủ nghĩa hiện thực cấu trúc: quyền lực tồn tại trong những ràng buộc mà nó không thể dễ dàng vượt qua. Năng lực vật chất là cần thiết nhưng không đủ cho sự chuyển đổi bá quyền. Cấu trúc của hệ thống, sự phân bổ các liên minh, địa lý và tính chính danh của thể chế sẽ tiếp tục đóng vai trò định hình kết quả mang tính sâu sắc hơn ý định của nhà nước.

Do đó, sự trỗi dậy của Trung Quốc vừa thực tế nhưng cũng cho thấy sự hạn chế. Trung Quốc đã đạt được sự ngang bằng về quân sự trong khu vực và tầm quan trọng kinh tế toàn cầu, nhưng lại thiếu các đòn bẩy cấu trúc để thiết lập trật tự. Ngược lại, Mỹ, mặc dù suy thoái tương đối nhưng vẫn duy trì được khả năng phục hồi mang tính hệ thống thông qua chính cấu trúc mà Trung Quốc không thể sao chép, đó là các liên minh mạng lưới, tính chính danh mang tính quy phạm và chiều sâu không gian.

Như Mearsheimer đã cảnh báo, các cường quốc theo chủ nghĩa xét lại thường đánh giá thấp sức mạnh quán tính của các trật tự đã được thiết lập.[29] Chiến lược của Trung Quốc được thúc đẩy bởi các mệnh lệnh trong nước và bị ràng buộc bởi thực tế hệ thống, có nguy cơ duy trì mô hình này. Việc theo đuổi “sự trẻ hóa quốc gia” có thể thành công về mặt vật chất, nhưng logic cấu trúc của hệ thống đảm bảo rằng quyền lực của nó vẫn mang tính phái sinh chứ không phải mang tính chuyển đổi.

Từ góc nhìn hiện thực cấu trúc, sự trỗi dậy của Trung Quốc phản ánh cả sức mạnh vật chất ngày càng tăng của nước này lẫn những hạn chế dai dẳng của tình trạng vô chính phủ quốc tế. Bất chấp sự bành trướng kinh tế và quân sự nhanh chóng, Trung Quốc vẫn bị hạn chế bởi các yếu tố cấu trúc: địa lý bất lợi, sức mạnh của các liên minh do Mỹ dẫn đầu, và sự phụ thuộc vào các thể chế toàn cầu bắt nguồn từ trật tự tự do. Những hạn chế này ngăn cản Bắc Kinh chuyển hóa năng lực thành sự chuyển đổi hệ thống thực sự. Trật tự do Mỹ làm trung tâm, mặc dù bị thách thức nhưng vẫn tiếp tục thể hiện khả năng phục hồi của bá quyền, hấp thụ cạnh tranh thông qua thích nghi thay vì sụp đổ. Do đó, hệ thống quốc tế đang tiến hóa theo hướng cùng tồn tại cạnh tranh, chứ không phải là sự đứt gãy lưỡng cực. Về bản chất, việc Trung Quốc theo đuổi sự cân bằng với Mỹ cho thấy một nhận thức then chốt của chủ nghĩa hiện thực cấu trúc: quyền lực mang tính quan hệ và bị giới hạn bởi cấu trúc. Do đó, sự trỗi dậy của Trung Quốc sẽ vẫn mang tính độc đoán nhưng bị hạn chế, dù vậy vẫn đủ mạnh để định hình hệ thống, nhưng nhiều khả năng sẽ không thể thay thế hệ thống.

Tác giả: Duy Hưng

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của Nghiên cứu Chiến lược. Mọi trao đổi học thuật và các vấn đề khác, quý độc giả có thể liên hệ với ban biên tập qua địa chỉ mail: [email protected]

Tài liệu tham khảo:

– Hüseyin Korkmazİdris, Turanİdris Turan. (2021). “Analysis of the Competition Between China and the US in the 21 st Century from the Perspective of the Concept of Hybrid Cold War”. Anadolu Üniversitesi Sosyal Bilimler Dergisi.

– Dang Yuan. (2025). “Decoding China: How Xi aims to overtake US as a superpower”. DW. https://www.dw.com/en/xi-jinping-china-model-putin-united-states-trump/a-73866651

– Taliaferro và cộng sự. (2012). “Neoclassical Realism, the State, and Foreign Policy“. Cambridge University Press. p. 4

– Alexander Chipman Koty. (2019). “Disparities in China’s Regional Growth: A Look at H1 2019 GDP Data”. China Briefing. https://www.china-briefing.com/news/china-regional-growth-disparities-increased-h1-2019-gdp-growth-numbers/

– Amer Ababakr. (2021). “Understanding Neorealism Theory in Light of Kenneth Waltz’s Thoughts”. International Relations and Diplomacy.

– Layne, C. (2006b). “The Unipolar Illusion Revisited: The Coming End of the United States’ Unipolar Moment”. International Security.

– HAL BRANDS và cộng sự. (2025). “Hearing on an axis of autocracy? China’s relations with Russia”. United States-China Economic and Security Review Commission (.gov). https://www.uscc.gov/sites/default/files/202504/February_20_2025_Hearing_Transcript_0.pdf

– Saibal Dasgupta. (2017). “China’s neighbors: Friends, foes and frenemies”. Times of India. https://timesofindia.indiatimes.com/world/china/how-chinas-neighbors-view-it-beijings-friends-foes-and-frenemies/articleshow/60152031.cms

– Stephen Kotkin. (2022). “The Cold War Never Ended”. Foreign Affairs. https://www.foreignaffairs.com/reviews/ukraine-cold-war-never-ended-russia-ukraine-war

– Brombal Daniele. (2024). “Analysis of development policies in Tibet and their socio-economic impact from 1950 to the present day”. Ca’ Foscari University of Venice. https://unitesi.unive.it/retrieve/580c4d06-114a-4827-b2ef65adbc073fdd/Analysis%20of%20development%20policies%20in%20Tibet%20and%20their%20socioeconomic%20impact%20from%201950%20to%20the%20present%20day.pdf

– John J. Mearsheimer. (2014). “The Tragedy of Great Power Politics“. W. W. Norton & Company.

– Lukas C. Brun. (2016). “Overcapacity in Steel: China’s Role in a Global Problem”. Duke Center on Globalization, Governance and Competitiveness. p. 1. https://www.americanmanufacturing.org/wpcontent/uploads/2023/08/OvercapacityReport2016_R3.pdf

– Habib, Faulknor. (2017). “The Belt and Road Initiative: China’s vision for globalisation, Beijing-style”. The Conversation. https://theconversation.com/the-belt-and-road-initiative-chinas-vision-for-globalisation-beijing-style-77705

– BERNARD CONDON. (2023). “China’s loans pushing world’s poorest countries to brink of collapse”. AP News. https://apnews.com/article/china-debt-banking-loansfinancial-developing-countries-collapse-8df6f9fac3e1e758d0e6d8d5dfbd3ed6

– Tashny Sukumaran. (2018). “In China’s debt, Malaysia and Pakistan pledge to help each other”. South China Morning Post. https://www.scmp.com/news/asia/diplomacy/article/2174375/chinas-debt-malaysia-and-pakistan-pledge-help-each-other

– Isaac B. Kardon và cộng sự. (2020). “China’s Potential Strategic Strongpoint in Pakistan”. China Maritime Report. https://digital-commons.usnwc.edu/cgi/viewcontent.cgi?article=1006&context=cmsi-maritime-reports

– Vorndick, Wilson (2018). “China’s Rech Has Grown; So Should the Island Chains”. Asia Maritime Transparency Initiative. Center for Strategic and International Studies.

– AFP. (2022). “Cambodia, China Deny Naval Base Reports as Australia Voices Concern”, The Straits Times. https://www.straitstimes.com/asia/se-asia/cambodia-china-deny-naval-base-reports-as-australia-voices-concern

– Mike Sweeney. (2024). “Challenges to Chinese blue-water operations”. Defense Proprities. https://www.defensepriorities.org/explainers/challenges-to-chinese-blue-water-operations/

– Saunders, Wuthnow. (2019). “Large and In Charge: Civil-Military Relations under Xi Jinping”. National Defense University Press (NDU Press). https://ndupress.ndu.edu/Media/News/News-Article-View/Article/1748660/large-and-in-charge-civil-military-relations-under-xi-jinping/

– Timothy R. Heath. (2025). “The Chinese Military’s Doubtful Combat Readiness”. RAND. https://www.rand.org/pubs/perspectives/PEA830-1.html

– Ma, Xinru; Kang, David C. (2024). “Beyond Power Transitions: The Lessons of East Asian History and the Future of U.S.-China Relations“. New York: Columbia University Press.

– Peter Toledo. (2012). “Classic Realism and the Balance of Power Theory”. Glendon Journal of International Studies. https://gjis.journals.yorku.ca/index.php/gjis/article/view/35205/31924

– Adam R. C. Humphreys. (2006). “Kenneth Waltz and the limits of explanatory theory in International Relations”.  Balliol College, Oxford. https://scispace.com/pdf/kenneth-waltz-and-the-limits-of-explanatory-theory-in-2f51hyiyx6.pdf

– Stewart M. Patrick. (2011). “Summer Reading: Ikenberry’s Liberal Leviathan”. Council on Foreign Relations. https://www.cfr.org/blog/summer-reading-ikenberrys-liberal-leviathan

– Lippert, Perthes. (2020). “Strategic Rivalry between United States and China”. German Institute for International and Security Affairs. SWP Research, Paper 4. p. 9. https://www.swp-berlin.org/publications/products/research_papers/2020RP04_China_USA.pdf

– JORG KUSTERMANS. (2023). “Whose Revisionism, Which International Order? Social Structure and Its Discontents”. Global Studies Quarterly. https://academic.oup.com/isagsq/article/3/1/ksad009/7080853

– Robert A. Pape. (2005). “Soft Balancing against the United States”. International Security.

– Tommy S.H. Chai. (2025). “Rethinking East Asia’s Historical Order: Heterarchy in China-Southeast Asia Relations”. The Chinese Journal of International Politics.

– Brooks, Wohlforth. (2023). “The Myth of Multipolarity American Power’s Staying Power”. Foreign Affairs. https://www.foreignaffairs.com/united-states/china-multipolarity-myth

– HAL BRANDS và cộng sự. (2025). “Hearing on an axis of autocracy? China’s relations with Russia”. United States-China Economic and Security Review Commission (.gov). https://www.uscc.gov/sites/default/files/2025-04/February_20_2025_Hearing_Transcript_0.pdf

– Edward N. Luttwak. (2016). “The Grand Strategy of the Roman Empire: From the First Century CE to the Third“. Johns Hopkins University Press.

[1] Amer Ababakr. (2021). “Understanding Neorealism Theory in Light of Kenneth Waltz’s Thoughts”. International Relations and Diplomacy 9(12). p. 522

[2] Layne, C. (2006b). “The Unipolar Illusion Revisited: The Coming End of the United States’ Unipolar Moment”. International Security 31 (2). p. 7.

[3] HAL BRANDS và cộng sự. (2025). “Hearing on an axis of autocracy? China’s relations with Russia”. United States–China Economic and Security Review Commission (.gov). p. 14. https://www.uscc.gov/sites/default/files/2025-04/February_20_2025_Hearing_Transcript_0.pdf

[4] Saibal Dasgupta. (2017). “China’s neighbors: Friends, foes and frenemies”. Times of India. https://timesofindia.indiatimes.com/world/china/how-chinas-neighbors-view-it-beijings-friends-foes-and-frenemies/articleshow/60152031.cms

[5] Stephen Kotkin. (2022). “The Cold War Never Ended”. Foreign Affairs. https://www.foreignaffairs.com/reviews/ukraine-cold-war-never-ended-russia-ukraine-war

[6] Brombal Daniele. (2024). “Analysis of development policies in Tibet and their socio-economic impact from 1950 to the present day”. Ca’ Foscari University of Venice. p. 43. https://unitesi.unive.it/retrieve/580c4d06-114a-4827-b2ef-65adbc073fdd/Analysis%20of%20development%20policies%20in%20Tibet%20and%20their%20socio-economic%20impact%20from%201950%20to%20the%20present%20day.pdf

[7] John J. Mearsheimer. (2014). “The Tragedy of Great Power Politics”. W. W. Norton & Company. p. 27

[8] Lukas C. Brun. (2016). “Overcapacity in Steel: China’s Role in a Global Problem”. Duke Center on Globalization, Governance and Competitiveness. p. 1. https://www.americanmanufacturing.org/wp-content/uploads/2023/08/OvercapacityReport2016_R3.pdf

[9] Habib, Faulknor. (2017). “The Belt and Road Initiative: China’s vision for globalisation, Beijing-style”. The Conversation. https://theconversation.com/the-belt-and-road-initiative-chinas-vision-for-globalisation-beijing-style-77705

[10] BERNARD CONDON. (2023). “China’s loans pushing world’s poorest countries to brink of collapse”. AP News. https://apnews.com/article/china-debt-banking-loans-financial-developing-countries-collapse-8df6f9fac3e1e758d0e6d8d5dfbd3ed6

[11] Tashny Sukumaran. (2018). “In China’s debt, Malaysia and Pakistan pledge to help each other”. South China Morning Post. https://www.scmp.com/news/asia/diplomacy/article/2174375/chinas-debt-malaysia-and-pakistan-pledge-help-each-other

[12] Isaac B. Kardon và cộng sự. (2020). “China’s Potential Strategic Strongpoint in Pakistan”. China Maritime Report No. 7. p. 2. https://digital-commons.usnwc.edu/cgi/viewcontent.cgi?article=1006&context=cmsi-maritime-reports

[13] Vorndick, Wilson (2018). “China’s Rech Has Grown; So Should the Island Chains”. Asia Maritime Transparency Initiative. Center for Strategic and International Studies.

[14] AFP. (2022). “Cambodia, China Deny Naval Base Reports as Australia Voices Concern”, The Straits Times. https://www.straitstimes.com/asia/se-asia/cambodia-china-deny-naval-base-reports-as-australia-voices-concern;

[15] Mike Sweeney. (2024). “Challenges to Chinese blue-water operations”. Defense Proprities. https://www.defensepriorities.org/explainers/challenges-to-chinese-blue-water-operations/

[16] Saunders, Wuthnow. (2019). “Large and In Charge: Civil-Military Relations under Xi Jinping”. National Defense University Press (NDU Press). https://ndupress.ndu.edu/Media/News/News-Article-View/Article/1748660/large-and-in-charge-civil-military-relations-under-xi-jinping/

[17] Timothy R. Heath. (2025). “The Chinese Military’s Doubtful Combat Readiness”. RAND. p. 1-2. https://www.rand.org/pubs/perspectives/PEA830-1.html

[18] Ma, Xinru; Kang, David C. (2024). “Beyond Power Transitions: The Lessons of East Asian History and the Future of U.S.-China Relations”. New York: Columbia University Press. p. 23

[19] Peter Toledo. (2012). “Classic Realism and the Balance of Power Theory”. Glendon Journal of International Studies, Vol. 4. p. 61. https://gjis.journals.yorku.ca/index.php/gjis/article/view/35205/31924

[20] Adam R. C. Humphreys. (2006). “Kenneth Waltz and the limits of explanatory theory in International Relations”.  Balliol College, Oxford. p. 231. https://scispace.com/pdf/kenneth-waltz-and-the-limits-of-explanatory-theory-in-2f51hyiyx6.pdf

[21] Stewart M. Patrick. (2011). “Summer Reading: Ikenberry’s Liberal Leviathan”. Council on Foreign Relations. https://www.cfr.org/blog/summer-reading-ikenberrys-liberal-leviathan

[22] Lippert, Perthes. (2020). “Strategic Rivalry between United States and China”. German Institute for International and Security Affairs. SWP Research, Paper 4. p. 9. https://www.swp-berlin.org/publications/products/research_papers/2020RP04_China_USA.pdf

[23] JORG KUSTERMANS. (2023). “Whose Revisionism, Which International Order? Social Structure and Its Discontents”. Global Studies Quarterly, 2023, 3. p. 7. https://academic.oup.com/isagsq/article/3/1/ksad009/7080853

[24] Robert A. Pape. (2005). “Soft Balancing against the United States”. International Security, Vol. 30, No. 1.  p. 20

[25] Tommy S.H. Chai. (2025). “Rethinking East Asia’s Historical Order: Heterarchy in China–Southeast Asia Relations”. The Chinese Journal of International Politics, 2025, 18(2). p. 246.

[26] Brooks, Wohlforth. (2023). “The Myth of Multipolarity American Power’s Staying Power”. Foreign Affairs. https://www.foreignaffairs.com/united-states/china-multipolarity-myth

[27] HAL BRANDS và cộng sự. (2025). “Hearing on an axis of autocracy? China’s relations with Russia”. United States–China Economic and Security Review Commission (.gov). p. 14. https://www.uscc.gov/sites/default/files/2025-04/February_20_2025_Hearing_Transcript_0.pdf

[28] Edward N. Luttwak. (2016). “The Grand Strategy of the Roman Empire: From the First Century CE to the Third“. Johns Hopkins University Press. p. 7

[29] John J. Mearsheimer. (2014). “The Tragedy of Great Power Politics”. W. W. Norton & Company. p. 27

ShareTweetShare
Bài trước

Tổng quan về tình hình biểu tình, bạo loạn trên thế giới hiện nay và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam – Phần cuối

  • Thịnh Hành
  • Bình Luận
  • Latest
Cuba đương đầu với những thách thức chính trị trong nước

Cuba đương đầu với những thách thức chính trị trong nước

22/06/2025
Tin đồn về sự lung lay quyền lực của Tập Cận Bình: Hiện thực hay chỉ là biểu hiện của chiến tranh nhận thức?

Tin đồn về sự lung lay quyền lực của Tập Cận Bình: Hiện thực hay chỉ là biểu hiện của chiến tranh nhận thức?

04/06/2025
Tình hình xung đột tại Myanmar sau 3 năm: Diễn biến, tác động và dự báo

Tình hình xung đột tại Myanmar sau 3 năm: Diễn biến, tác động và dự báo

30/01/2024
Châu Á – “thùng thuốc súng” của Chiến tranh thế giới thứ ba

Châu Á – “thùng thuốc súng” của Chiến tranh thế giới thứ ba

18/09/2024
Xung đột quân sự Thái Lan – Campuchia: Cuộc chiến không có người chiến thắng

Xung đột quân sự Thái Lan – Campuchia: Cuộc chiến không có người chiến thắng

27/07/2025
Tình hình Biển Đông từ đầu năm 2024 đến nay và những điều cần lưu ý

Tình hình Biển Đông từ đầu năm 2024 đến nay và những điều cần lưu ý

06/05/2024
Làn sóng biểu tình ở Indonesia: thực trạng, dự báo và vấn đề đặt ra đối với Việt Nam

Làn sóng biểu tình ở Indonesia: thực trạng, dự báo và vấn đề đặt ra đối với Việt Nam

01/09/2025
Dấu hiệu cách mạng màu trong khủng hoảng chính trị ở Bangladesh?

Dấu hiệu cách mạng màu trong khủng hoảng chính trị ở Bangladesh?

07/08/2024
Triển vọng phát triển tuyến đường thương mại biển Á – Âu qua Bắc Băng Dương

Triển vọng phát triển tuyến đường thương mại biển Á – Âu qua Bắc Băng Dương

2
Khả năng phát triển của các tổ chức an ninh tư nhân Trung Quốc trong những năm tới

Khả năng phát triển của các tổ chức an ninh tư nhân Trung Quốc trong những năm tới

2
4,5 giờ đàm phán cấp cao Mỹ – Nga: cuộc chiến tại Ukraine liệu có cơ hội kết thúc?

Những điều đáng chú ý trong cuộc đàm phán Ngoại trưởng Nga – Mỹ tại Saudi Arabia

2
Tin đồn về sự lung lay quyền lực của Tập Cận Bình: Hiện thực hay chỉ là biểu hiện của chiến tranh nhận thức?

Tin đồn về sự lung lay quyền lực của Tập Cận Bình: Hiện thực hay chỉ là biểu hiện của chiến tranh nhận thức?

2
Liệu đã đến thời điểm nghĩ tới đàm phán hòa bình với Nga và các điều khoản sẽ thế nào?

Liệu đã đến thời điểm nghĩ tới đàm phán hòa bình với Nga và các điều khoản sẽ thế nào?

1
Quan hệ Nga-Trung-Triều phát triển nhanh chóng và hệ lụy đối với chiến lược của phương Tây

Quan hệ Nga-Trung-Triều phát triển nhanh chóng và hệ lụy đối với chiến lược của phương Tây

1
Campuchia triển khai Chiến lược Ngũ giác và những hàm ý đối với Việt Nam

Campuchia triển khai Chiến lược Ngũ giác và những hàm ý đối với Việt Nam

1
Nhìn nhận về quan hệ Nga – Triều hiện nay: Vị thế của một tiểu cường sở hữu vũ khí hạt nhân

Nhìn nhận về quan hệ Nga – Triều hiện nay: Vị thế của một tiểu cường sở hữu vũ khí hạt nhân

1
Giới hạn cấu trúc trong sự trỗi dậy của Trung Hoa: Thách thức lâu dài đối với Giấc mộng Trung Hoa

Giới hạn cấu trúc trong sự trỗi dậy của Trung Hoa: Thách thức lâu dài đối với Giấc mộng Trung Hoa

07/11/2025
Tổng quan về tình hình biểu tình, bạo loạn trên thế giới hiện nay và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam – Phần 1

Tổng quan về tình hình biểu tình, bạo loạn trên thế giới hiện nay và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam – Phần cuối

06/11/2025
Tổng quan về tình hình biểu tình, bạo loạn trên thế giới hiện nay và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam – Phần 1

Tổng quan về tình hình biểu tình, bạo loạn trên thế giới hiện nay và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam – Phần 2

05/11/2025
Tổng quan về tình hình biểu tình, bạo loạn trên thế giới hiện nay và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam – Phần 1

Tổng quan về tình hình biểu tình, bạo loạn trên thế giới hiện nay và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam – Phần 1

04/11/2025
Nhận định về cuộc gặp gỡ Donald Trump – Tập Cận Bình bên lề Hội nghị APEC 2025

Nhận định về cuộc gặp gỡ Donald Trump – Tập Cận Bình bên lề Hội nghị APEC 2025

01/11/2025
Năng lực phòng thủ phi đối xứng của Venezuela trước kịch bản xung đột quân sự với Mỹ

Năng lực phòng thủ phi đối xứng của Venezuela trước kịch bản xung đột quân sự với Mỹ

31/10/2025
Hợp tác trí tuệ nhân tạo ASEAN – Trung Quốc và một số vấn đề đặt ra cho Việt Nam

Hợp tác trí tuệ nhân tạo ASEAN – Trung Quốc và một số vấn đề đặt ra cho Việt Nam

31/10/2025
Từ Syria đến Gaza: Chiến lược “ủy nhiệm” của Israel trở lại

Từ Syria đến Gaza: Chiến lược “ủy nhiệm” của Israel trở lại

28/10/2025

Tin Mới

Giới hạn cấu trúc trong sự trỗi dậy của Trung Hoa: Thách thức lâu dài đối với Giấc mộng Trung Hoa

Giới hạn cấu trúc trong sự trỗi dậy của Trung Hoa: Thách thức lâu dài đối với Giấc mộng Trung Hoa

07/11/2025
39
Tổng quan về tình hình biểu tình, bạo loạn trên thế giới hiện nay và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam – Phần 1

Tổng quan về tình hình biểu tình, bạo loạn trên thế giới hiện nay và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam – Phần cuối

06/11/2025
86
Tổng quan về tình hình biểu tình, bạo loạn trên thế giới hiện nay và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam – Phần 1

Tổng quan về tình hình biểu tình, bạo loạn trên thế giới hiện nay và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam – Phần 2

05/11/2025
174
Tổng quan về tình hình biểu tình, bạo loạn trên thế giới hiện nay và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam – Phần 1

Tổng quan về tình hình biểu tình, bạo loạn trên thế giới hiện nay và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam – Phần 1

04/11/2025
301

Cộng đồng nghiên cứu chiến lược và các vấn đề quốc tế.

Liên hệ

Email: [email protected]; [email protected]

Danh mục tin tức

  • Bầu cử tổng thống mỹ
  • Châu Á
  • Châu Âu
  • Châu Đại Dương
  • Châu Mỹ
  • Châu Phi
  • Chính trị
  • Chuyên gia
  • Khu vực
  • Kinh tế
  • Lĩnh vực
  • Media
  • Phân tích
  • Quốc phòng – an ninh
  • Sách
  • Sự kiện
  • Sự kiện
  • Thông báo
  • Thư viện
  • TIÊU ĐIỂM – ĐẠI HỘI ĐẢNG XX TQ
  • Xã hội
  • Ý kiến độc giả
No Result
View All Result
  • Trang Chủ
  • Lĩnh vực
    • Kinh tế
    • Xã hội
    • Quốc phòng – an ninh
    • Chính trị
  • Khu vực
    • Châu Á
    • Châu Âu
    • Châu Mỹ
    • Châu Phi
    • Châu Đại Dương
  • Phân tích
    • Ý kiến độc giả
    • Chuyên gia
  • Thư viện
    • Sách
    • Tạp chí
    • Media
  • Podcasts
  • Giới thiệu
    • Ban Biên tập
    • Dịch giả
    • Đăng ký cộng tác
    • Thông báo

© 2022 Bản quyền thuộc về nghiencuuchienluoc.org.