Khi Trung Quốc bao vây Đài Loan bằng các tàu chiến, đã đến lúc xem xét các chiến dịch quân sự mà Tập Cận Bình có thể đang chuẩn bị.
Trong một động thái cũng là lời cảnh báo đối với chính quyền Trump sắp tới, Bắc Kinh lại tiếp tục gây sức ép lên Đài Bắc bằng các cuộc tập trận quân sự trong thời gian vừa qua, với các hình thức mới. Phiên bản mới nhất của chiến dịch gây áp lực đa lĩnh vực của Trung Quốc bao gồm việc triển khai nhiều tàu do chính phủ kiểm soát từ Hải quân, Lực lượng Bảo vệ Bờ biển và tàu “dân sự” của Trung Quốc ở Biển Đông và Biển Hoa Đông: các vùng nước gần Đài Loan và các đảo phía tây nam của Nhật Bản, với phạm vi bao phủ chưa từng có của Chuỗi đảo thứ nhất.
Theo phát ngôn viên Bộ Quốc phòng Đài Loan Sun Li-fang, Trung Quốc đã thực hiện các hoạt động hàng hải lớn nhất kể từ năm 1996. Khoảng 60 tàu chiến, 30 tàu Lực lượng Bảo vệ Bờ biển và vài nghìn nhân viên đã tham gia trực tiếp. Trung Quốc đã “mở rộng sức mạnh quân sự ra ngoài,” Tướng Hsieh Jih-sheng, quan chức cấp cao Bộ Quốc phòng Đài Loan cho biết với các phóng viên: “Số lượng thực sự là rất đáng kinh ngạc.”
Bảy “khu vực dự trữ tạm thời” trên không phận phía đông các tỉnh Phúc Kiến và Chiết Giang cũng đã cho phép thực hiện các hoạt động của không quân. Vào ngày 9 tháng 12, Bộ Quốc phòng Đài Loan báo cáo, có 47 máy bay của Quân Giải phóng Nhân dân (PLA) hoạt động xung quanh Đài Loan, trong đó 16 chiếc đã vượt qua đường phân cách giữa eo biển Đài Loan và xâm nhập vào vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) của Đài Loan.
Suốt một khoảng thời gian dài theo dõi quân đội Trung Quốc, tác giả nhận thấy đây là giai đoạn tập trung mạnh mẽ nhất của họ, đồng thời, nhiều xu hướng hội tụ một cách đáng lo ngại, đó là điều chưa từng có. Trung Quốc đang tham gia vào cuộc tăng cường quân sự lớn nhất kể từ Thế chiến II, liên tục bổ sung một lượng lớn vũ khí tiên tiến và không ngừng huấn luyện để sử dụng chúng một cách hiệu quả.
Để tối đa hóa di sản lịch sử của mình, nhà lãnh đạo tối cao Tập Cận Bình rõ ràng khao khát đạt được giải thưởng địa chính trị tối thượng: Đài Loan, nơi cuối cùng của tự do thịnh vượng trong khu vực mà Đảng Cộng sản Trung Quốc (CCP) tuyên bố chủ quyền. Tập vẫn có thể bị ngăn cản khỏi việc tấn công Đài Loan, nhưng khả năng ngăn chặn này đang giảm sút nhanh chóng. Thời gian đang đếm ngược, và mức độ nguy hiểm có thể khó hoặc cao hơn.
Đó là lý do tại sao điều quan trọng là phải hiểu rõ động thái cuối cùng của Tập Cận Bình trong việc “thu hồi” Đài Loan có thể trông như thế nào, và tập trung vào việc tăng cường phòng thủ để ngăn cản ông ấy không bao giờ thực hiện điều đó – kết quả tốt nhất cho tất cả các bên liên quan.
Việc thành lập Viện Nghiên cứu Hàng hải Trung Quốc (CMSI) thuộc Học viện Hải quân cách đây hai thập kỷ (nội bộ vào năm 2004, bên ngoài vào năm 2006), với các nguyên tắc chủ đạo bao gồm tập trung vào sự phát triển quân sự hàng hải của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC) – trải rộng trên toàn diện, vượt xa các vấn đề hải quân đơn thuần. Việc phân tích kỹ lưỡng các nguồn tài liệu mở bằng tiếng Trung có uy tín sẽ cung cấp những cái nhìn độc đáo về chiến tranh đổ bộ quy mô lớn trong chiến lược quân sự của Trung Quốc.
Lược sử về Chiến tranh đổ bộ của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Khi CMSI đào sâu vào các chủ đề liên quan và xem xét ai là người có thể giải quyết chúng tốt nhất, Mao Trạch Đông đã ra lệnh cho Quân Giải phóng Nhân dân (PLA) chuẩn bị cho một cuộc tấn công đổ bộ lên Đài Loan vào mùa hè năm 1950, trước khi sự can thiệp của Mỹ sau sự kiện Chiến tranh Triều Tiên nổ ra vào tháng 6 cùng năm đã làm kế hoạch của ông thất bại.
Grant Rhode ghi lại cuộc tấn công Đài Loan của Đô đốc Shi Lang vào năm 1683 – mặc dù rất xa với các hoạt động quân sự hiện đại nhưng đã được Bắc Kinh sử dụng với một ý nghĩa mang tình biểu tượng và chính trị trong những năm gần đây.
Xiaobing Li, một nhà sử học nổi tiếng từng phục vụ trong Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA), đã khảo sát những kinh nghiệm định hình của PLA trong chiến tranh đổ bộ. Thất bại thảm khốc khi cố gắng chiếm đảo Kim Môn vào tháng 10 năm 1949 đã mang lại những bài học giúp PLA đạt được thành công vang dội trong cuộc đổ bộ lên đảo Hải Nam vào tháng 4 năm 1950. Chiến thắng đó, đến lượt nó, đã truyền cảm hứng cho ban lãnh đạo Trung Quốc chuẩn bị cho một cuộc tấn công tương tự lên Đài Loan. Tuy nhiên, Thủ tướng Chu Ân Lai đã chính thức hoãn kế hoạch này vào cuối thời gian dự kiến, ngày 30 tháng 6 năm 1950, vì chiến tranh Triều Tiên nổ ra đã dẫn đến sự can thiệp của Mỹ vào đầu tháng đó.
Dù Hạm đội 7 của Mỹ kiểm soát eo biển Đài Loan và duy trì sự ổn định trong khu vực thông qua sứ mệnh “Tuần tra Đài Loan” kéo dài 29 năm, lãnh đạo Trung Quốc không dễ dàng từ bỏ mục tiêu này. Ủy ban Quân sự Trung ương sau đó xác định năm 1952 sẽ là thời điểm sớm nhất để phát động một cuộc tấn công vào Đài Loan. Tuy nhiên, mục tiêu cuối cùng này đã bị hoãn vô thời hạn và chỉ được tái khởi động một cách thực tế trong “kỷ nguyên mới” đầy táo bạo của Tập Cận Bình.
Trong phần còn lại của thập niên 1950, đối với Đài Loan, PLA chuyển hướng tập trung vào việc chiếm “từng phần” các đảo nhỏ gần đó do Quốc dân Đảng (KMT) kiểm soát, sao cho không kích động sự can thiệp của Mỹ. (PLA) đã thành công trong việc chiếm quần đảo Đại Trần, bao gồm cả chiến dịch tiêu biểu tại Yijiangshan. Tuy nhiên, dù đã khơi mào các cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan năm 1954-1955 và 1958, Trung Quốc vẫn không thể chiếm được các quần đảo Kim Môn và Mã Tổ. Lời đe dọa can thiệp và khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân từ chính quyền Dwight D. Eisenhower đã trở thành một biện pháp răn đe đáng tin cậy. Đáng tiếc là, như Đô đốc Michael McDevitt cảnh báo trong chương sách của mình, các tổng thống Mỹ ngày nay phải đối mặt với một Trung Quốc mạnh mẽ hơn rất nhiều so với thời của Eisenhower.
Học thuyết Chiến tranh đổ bộ của Trung Quốc
Tuy nhiên, như Christopher Yung và Zoe Haver trình bày, học thuyết chiến tranh đổ bộ của (PLA) bắt nguồn từ các công tác chuẩn bị từ năm 1949 để chiếm đảo Hải Nam vào mùa xuân năm sau, cũng như các kế hoạch bị hủy bỏ nhằm chiếm Đài Loan dưới sự chỉ huy của Tướng Tô Ngọc, người được Mao Trạch Đông ưu ái. Tô Ngọc đã đối mặt với những phiên bản sơ khai của các vấn đề mà những người kế nhiệm ông gặp phải ngày nay: đảm bảo yểm trợ đường không, giành ưu thế trên biển và huy động đủ phương tiện vận chuyển đường biển.
Đối với quân đội, mọi thứ bắt đầu từ học thuyết: tập hợp các nguyên tắc cơ bản để định hướng hành động của các lực lượng hoặc đơn vị quân sự nhằm hỗ trợ các mục tiêu quốc gia. Nói đơn giản, đó là những gì họ cần làm và cách họ thực hiện. Từ đây, chúng tôi tập trung phân tích những nhiệm vụ mà lãnh đạo Trung Quốc giao cho quân đội trong các chiến dịch đổ bộ và cách (PLA) dự định thực hiện chúng.
Yung và Haver nêu ra sáu trụ cột chính của học thuyết đổ bộ (PLA), phản ánh các nguyên tắc “tiêu chuẩn vàng” được Hoa Kỳ và đồng minh phát triển trong Thế chiến II: (1) Thống trị ba lĩnh vực (không gian, biển, và thông tin), (2) Tấn công vào các điểm trọng yếu, (3) Tập trung lực lượng “tinh nhuệ”, (4)Tấn công nhanh và liên tục, (5) Các hoạt động hỗ trợ tích hợp và linh hoạt, (6) Tấn công tâm lý.
Lực lượng đổ bộ liên hợp của Trung Quốc
Để hiểu cách Trung Quốc áp dụng học thuyết này vào Đài Loan, tác giả đã xem xét Chiến dịch Đổ bộ Đảo Liên hợp – khái niệm tác chiến chính của PLA cho cuộc tấn công xuyên eo biển. Mục tiêu chính là xuyên thủng các tuyến phòng thủ ven biển của Đài Loan và thiết lập một bàn đạp để tạo điều kiện cho các cuộc tấn công tiếp theo nhằm chiếm và giữ các mục tiêu trọng yếu. Chiến dịch này bao gồm nhiều chiến dịch đòi hỏi sự phối hợp tác chiến cường độ cao giữa tất cả các lực lượng của (PLA).
Các giai đoạn bao gồm: (1) Các hoạt động chuẩn bị, (2) Tập hợp, lên tàu và hành trình, (3) Đổ bộ và thiết lập bãi đổ bộ.
Lực lượng đổ bộ liên hợp của Trung Quốc có bốn thành phần chính: các đơn vị đổ bộ của Lục quân PLA (PLAGF), Lực lượng Thủy quân Lục chiến của Hải quân PLA (PLANMC), hạm đội đổ bộ của Hải quân PLA (PLAN) và đội tàu hỗ trợ dân sự.
Một câu hỏi được tranh luận nhưng chưa được giải quyết là liệu Trung Quốc có thể đe dọa hoặc tiến hành các cuộc tấn công, chiếm giữ các đảo ven biển trước khi cố gắng kiểm soát toàn bộ Đài Loan hay không.
Conor Kennedy nghiên cứu về Lực lượng Thủy quân Lục chiến của Trung Quốc (PLANMC), lực lượng đã tăng gấp ba lần quy mô từ năm 2017, từ khoảng 10.000 binh sĩ lên đến hơn 30.000, và số lượng lữ đoàn tăng từ hai lên tám. Dù (PLANMC) chủ yếu là lực lượng viễn chinh bảo vệ “lợi ích ở nước ngoài” của Trung Quốc, nó sẽ đóng vai trò quan trọng trong một cuộc tấn công Đài Loan: thực hiện các chiến dịch tiền trạm để tạo điều kiện thuận lợi cho đổ bộ và triển khai các cuộc tấn công nhỏ hơn nhằm hỗ trợ chiến dịch lớn hơn. Các nỗ lực tiếp theo sau khi vượt qua bãi biển có thể bao gồm cả chiến tranh đô thị.
Jennifer Rice xem xét hạm đội đổ bộ của (PLAN). Việc ưu tiên phát triển các tàu đổ bộ lớn hơn cho thấy (PLAN) tập trung vào các hoạt động ở nước ngoài tương tự (PLANMC). Với ngành công nghiệp đóng tàu lớn nhất thế giới, Trung Quốc có thể tăng cường sản xuất các tàu đổ bộ chuyên dụng như LST (Landing Ship, Tank) và LSM (Landing Ship, Medium) được tối ưu hóa cho cuộc tấn công Đài Loan, nhưng hiện vẫn chưa làm điều đó. Do vậy, một số tác giả khác cho rằng Trung Quốc sẽ khó thực hiện thành công một cuộc tấn công xuyên eo biển quy mô lớn cho đến khi nắm vững khả năng “hậu cần liên hợp trên bờ” như quân đội Hoa Kỳ.
Ngược lại, Lonnie Henley lập luận rằng việc sử dụng lực lượng Dân quân Hàng hải và các tàu “dân sự” do dân quân điều khiển để bổ sung vào năng lực vận tải, hậu cần và vật tư đổ bộ thực chất không phải là điểm yếu mà là một tính năng có chủ ý trong cách (PLA) chuẩn bị năng lực xuyên eo biển. Điều này phù hợp với kinh nghiệm chiến đấu định hình (PLA), bao gồm việc chiếm các đảo ven biển từ tay Quốc dân Đảng. Nó tận dụng được nguồn lực khổng lồ của ngành hàng hải Trung Quốc, bao gồm cả các thành phần dân sự.
Tuy nhiên, phương pháp này cũng mang lại nhiều điểm yếu. Việc áp dụng quy định và quản lý nhất quán trong thực tế là thách thức, bao gồm cả việc cập nhật liên tục danh sách tàu và thủy thủ đoàn, đồng thời đảm bảo trạng thái sẵn sàng chiến đấu. Các tàu và hệ thống thông tin liên lạc của chúng dễ bị tổn thương, có thể bị Mỹ, Đài Loan và các đồng minh nhắm mục tiêu bằng một loạt biện pháp phản công.
Các lực lượng khác, dù không tham gia trực tiếp vào lực lượng tấn công chính, cũng sẽ đóng vai trò quan trọng trong chiến dịch xuyên eo biển. Cristina Garafola phân tích một thành phần quan trọng của Không quân PLA (PLAAF): Binh đoàn Nhảy dù (PLA). Các lực lượng nhảy dù này sử dụng nhiều loại máy bay, bao gồm cả vận tải cơ Y-20 của (PLAAF). Mặc dù đã cải thiện nhờ các cuộc cải cách liên tục, nhưng hiệu quả hỗ trợ của lực lượng này trong một cuộc tấn công Đài Loan vẫn còn là dấu hỏi lớn.
Trong khi đó, Tom Fox tập trung vào khả năng sử dụng trực thăng – cụ thể là các đơn vị trực thăng của (PLAGF). Mặc dù một số ý kiến cho rằng trực thăng có thể đóng vai trò quan trọng trong vận chuyển lực lượng qua eo biển, Fox, với kinh nghiệm phi công trực thăng và chuyên môn phân tích, chỉ ra những hạn chế về huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu. Ngay cả khi sử dụng hầu hết trực thăng của(PLAGF), Trung Quốc cũng khó vượt qua được phòng thủ của Đài Loan.
John Chen và Joel Wuthnow nghiên cứu về các Lực lượng Đặc nhiệm (SOF) của (PLA) và Cảnh sát Vũ trang Nhân dân (PAP). Các lực lượng này sẽ đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn chuẩn bị và tấn công chính, bao gồm trinh sát, phá chướng ngại vật, tấn công, đột kích và cứu hộ.
Cuối cùng, Thomas Shugart xem xét một yếu tố quan trọng nhưng ít được chú ý: chiến tranh mìn. Ông đánh giá Trung Quốc sở hữu năng lực triển khai mìn lớn nhất thế giới, từ tàu ngầm, máy bay đến tàu dân sự. Trước khi tấn công Đài Loan, Trung Quốc có thể cố gắng phong tỏa bằng mìn biển, nhưng điều này sẽ kích hoạt các biện pháp đối phó mạnh mẽ, bao gồm cả việc sử dụng mìn hải quân chống lại Trung Quốc.
Các kịch bản xoay vòng xung quanh “mục tiêu Đài Loan”
Tác giả đã tập trung vào các diễn biến liên quan đến năng lực đổ bộ của Trung Quốc và xác định các động lực cũng như xu hướng chính. Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) tập trung cao độ vào việc xem xét mọi biến số liên quan nhưng vẫn đối mặt với nhiều thách thức và hạn chế lớn, ngay cả khi lực lượng này đang xây dựng và triển khai quân đội với tốc độ chưa từng thấy kể từ sau Thế chiến.
Một cuộc đổ bộ quy mô lớn là một trong những hoạt động quân sự phức tạp và khó khăn nhất. Thành công phụ thuộc vào lập kế hoạch toàn diện, kiến trúc chỉ huy và kiểm soát phức tạp, huy động lực lượng lớn và đồng bộ hóa chính xác. Chiến dịch này có thể bị cản trở bởi các yếu tố như thời tiết xấu, biện pháp đối phó của đối phương, hoặc các sự cố bất ngờ. Không gì thể hiện rõ hơn những bất trắc vốn có này bằng thông điệp “Trong trường hợp thất bại” mà Tướng Dwight D. Eisenhower của Hoa Kỳ đã soạn thảo vào ngày 5 tháng 6 năm 1944, một ngày trước sự kiện D-Day thành công vang dội.
Như Trung tướng Charles Hooper – từng là tùy viên quốc phòng Hoa Kỳ tại Bắc Kinh – đã chỉ ra, cuộc đổ bộ lớn cuối cùng có sự chống trả mạnh mẽ là cuộc tấn công của Hoa Kỳ vào Inchon, Hàn Quốc, năm 1950. Bắc Kinh hiện đang cân nhắc một trong những chiến dịch đổ bộ tham vọng nhất trong lịch sử, bao gồm việc huy động đội tàu dân sự lớn nhất từ trước đến nay – vượt xa cuộc di tản Dunkirk về số lượng tàu và Chiến tranh Falklands về trọng tải. Trung Quốc thiếu kinh nghiệm vận hành trong điều kiện chiến tranh ở quy mô này.
Ví dụ, các lực lượng nhảy dù của (PLA) trong lịch sử chủ yếu được sử dụng để duy trì chế độ – như đã thấy trong việc đàn áp cuộc nổi dậy Vũ Hán năm 1967 trong Cách mạng Văn hóa và trong sự kiện Thiên An Môn năm 1989. Dưới các kịch bản khác nhau, Bắc Kinh có thể phải triển khai một số lực lượng với nhiệm vụ “một chiều” mà không có kế hoạch rút lui.
Hình dung cuộc tấn công của Trung Quốc
John Culver nhấn mạnh rằng Trung Quốc đang theo đuổi cách tiếp cận “toàn bộ chế độ” để “thống nhất” Đài Loan, nhưng vẫn chưa xây dựng – chứ chưa nói đến việc tích hợp hoạt động và huấn luyện – các tàu đổ bộ nhỏ cần thiết để cung cấp đủ năng lực vận tải biển truyền thống cho một chiến dịch đổ bộ xuyên eo biển. Trong khi đó, Lực lượng Thủy quân Lục chiến Hải quân PLA (PLANMC) không được tối ưu hóa cho các hành động quân sự nhằm vào Đài Loan, mà thay vào đó tập trung vào một loạt các hoạt động nhằm bảo vệ lợi ích của Trung Quốc ở Biển Đông, trong khu vực và thậm chí trên toàn cầu. Về vấn đề này, Sam Tangredi trong cuốn sách của mình mô tả quỹ đạo phát triển này như một sự “hoán đổi vai trò” với Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ, lực lượng đang chuyển từ phạm vi hoạt động toàn cầu truyền thống sang một tập hợp mục tiêu hẹp hơn tập trung vào Trung Quốc.
Tuy nhiên, quyết tâm và tiến bộ của Trung Quốc vẫn rất đáng kể. Trung Quốc đang nhanh chóng cải thiện trong các lĩnh vực quan trọng. William Fox và Roderick Lee đánh giá rằng các chiến lược gia Trung Quốc coi ưu thế trên không và trên biển là điều kiện tiên quyết để thực hiện thành công Chiến dịch đổ bộ Đảo. Bằng cách liệt kê chi tiết các cảm biến cần thiết cho một chiến dịch như vậy, họ nhận định rằng quân đội Trung Quốc có mức độ tự tin trung bình trong việc kiểm soát không phận và mức độ tự tin cao trong việc kiểm soát cục bộ trên biển. Tuy nhiên, các cảm biến quan trọng của (PLA) ít hơn nhiều so với các hệ thống vũ khí quan trọng, khiến chúng trở thành điểm yếu có thể bị khai thác bởi các cuộc tấn công giới hạn của Mỹ và đồng minh.
Hỗ trợ hậu cần sẽ là yếu tố sống còn đối với bất kỳ cuộc tấn công thành công nào. Kevin McCauley phân tích các đánh giá của chính các chuyên gia quân sự Trung Quốc, đặc biệt thông qua một ấn phẩm nội bộ từ trung tâm nghiên cứu hậu cần của (PLA). Các tác giả (PLA) đã ghi nhận nhiều điểm yếu, đặc biệt là năng lực vận tải không đủ và dự trữ chiến tranh còn hạn chế. Mặc dù những vấn đề này có thể đã được cải thiện kể từ năm 2017, nhưng một cuộc tấn công thành công vẫn đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ lưỡng hơn rất nhiều.
Nhiều nhà phân tích cho rằng Trung Quốc sẽ tập trung cuộc tấn công vào một số bãi biển lớn trên đảo chính Đài Loan, nơi Đài Loan có thể sẵn sàng chuẩn bị phòng thủ trước khi xảy ra xung đột. Tuy nhiên, Ian Easton thách thức quan điểm truyền thống này, cho rằng quân đội Trung Quốc có thể tránh các nút thắt hậu cần và sự phơi bày bằng cách tập trung các cuộc tấn công đổ bộ vào các cảng của Đài Loan. Ông cho rằng phần lớn lực lượng tấn công có thể đổ bộ tại đây. Easton đánh giá các cảng Đài Loan cụ thể dựa trên yêu cầu của (PLA) nhằm thiết lập đầu cầu với ít nhất một cảng hoạt động.
J. Michael Dahm bổ sung cho nghiên cứu của Lonnie Henley về việc sử dụng dân quân và tàu thương mại như các nhà cung cấp hậu cần trên bờ bằng một nghiên cứu sâu về các bài tập tích hợp dân sự-quân sự liên quan. Mặc dù có sự tiến bộ rõ rệt, Dahm nhận định rằng đội tàu thương mại của Trung Quốc vẫn chưa sẵn sàng cung cấp hỗ trợ hậu cần và cần thiết trong các điều kiện thực tế.
Tóm lại, các phát hiện trong bài viết này có thể khiến những người lạc quan nhất phải sốc vì rủi ro cao của tình hình hiện tại, nhưng cũng có thể truyền cảm hứng cho những người bi quan nhất với bằng chứng rằng việc ngăn chặn một cuộc tấn công Đài Loan vẫn hoàn toàn khả thi.
Các phản ứng của Mỹ
Đô đốc Michael McDevitt đưa ra các khuyến nghị về cách Hải quân Hoa Kỳ nên hành động nếu được giao nhiệm vụ hỗ trợ Đài Loan ngăn chặn một nỗ lực tấn công của Trung Quốc.
Từ trước đến nay, yếu tố cứu vãn là Đài Loan sở hữu đặc điểm địa lý có tính phòng thủ mạnh mẽ, và việc thực hiện một cuộc tấn công đổ bộ quy mô lớn là một trong những chiến dịch quân sự khó khăn nhất. Lợi thế cơ bản của Đài Loan là khả năng phòng thủ tự nhiên của nó, cung cấp sự bảo vệ mạnh mẽ và nền tảng vững chắc để củng cố thêm.
Eo biển Đài Loan giống như một “hào sâu”, với thủy triều, dòng chảy, thời tiết, bãi bùn và địa hình ven biển cũng như cơ sở hạ tầng khiến việc thực hiện một cuộc tấn công đổ bộ trở nên đặc biệt khó khăn. Nhật Bản thời Đế quốc đã tận dụng các yếu tố này để ngăn cản Hoa Kỳ triển khai Chiến dịch Causeway, một nỗ lực cuối cùng trong Thế chiến II tại Thái Bình Dương, Ian Easton giải thích chi tiết qua các nguồn tài liệu lưu trữ mới trong Báo cáo Hàng hải Trung Quốc của CMSI. Tương tự, trong một bài báo gần đây, Tiến sĩ Scott Savitz từ RAND giải thích cách lực lượng Trung Quốc đã đánh bại nỗ lực xâm lược Đài Loan của Pháp vào năm 1884–1885 trong Chiến tranh Trung-Pháp.
Rất nhiều bài học vẫn còn tồn tại, nhưng thời gian đang đếm ngược. Dưới sự chỉ đạo mạnh mẽ của Chủ tịch Tập Cận Bình, quân đội Trung Quốc đang cải cách không ngừng, mang lại các năng lực quan trọng mới và huấn luyện không mệt mỏi để cải thiện khả năng thực hiện các chiến dịch mà họ đang tập trung vào. Để Hoa Kỳ có thể ưu tiên bảo vệ Đài Loan trong những thời điểm quan trọng này, Đài Loan phải ưu tiên quốc phòng của mình ở những lĩnh vực quan trọng nhất.
Dựa trên các nguyên lý vật lý và thực tế chiến lược, tác giả và cựu nghiên cứu viên của CMSI, Gabriel Collins, phác thảo sáu lĩnh vực cụ thể mà Đài Loan cần ưu tiên hơn hết, bao gồm cả việc duy trì các hệ thống hiện có: phòng không, mìn, tên lửa và đạn chống hạm, pháo bờ biển, chiến tranh thông tin, và khả năng phục hồi cơ sở hạ tầng quan trọng. Tình hình hiện tại rất nghiêm trọng và thời gian không còn nhiều.
Kịch bản phong tỏa
Cuộc tập trận quân sự mới nhất của Trung Quốc, trong chuỗi các cuộc diễn tập gây áp lực lên Đài Loan cho thấy các loại hoạt động mà Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA) đang chuẩn bị bao gồm một yếu tố hàng hải quan trọng. Tác giả ngày càng tin rằng hậu quả tồi tệ nhất và có khả năng cao sẽ xảy ra trong các hoạt động quân sự của Trung Quốc chống lại Đài Loan có thể là chiến dịch phong tỏa. Điều này sẽ đặc biệt nguy hiểm nếu Tập Cận Bình tin rằng loại hình chiến dịch này có khả năng thành công cao. Một cách tiếp cận như vậy có thể thu hút ông ấy như một “cách thức có thể đạt được mục tiêu mà không phải chịu rào cản lớn.”
Điều gì có thể làm cho lựa chọn này trở nên hấp dẫn? Từ góc độ của Trung Quốc, một chiến dịch phong tỏa có thể sử dụng các lực lượng hải quân và các tài sản, cơ sở hạ tầng hỗ trợ của Trung Quốc, vốn đứng đầu thế giới về số lượng, để tận dụng tối đa lợi thế. Nó có thể dựa vào các lập luận chính trị-pháp lý, thông điệp và các chiến dịch thông tin, lĩnh vực mà Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đầu tư tối đa và có kinh nghiệm sâu rộng. Chiến dịch này có thể có quy mô linh hoạt, giữ được sự mơ hồ và linh hoạt lớn nhất, ít nhất là trong giai đoạn đầu, và có thể đẩy gánh nặng leo thang lên lực lượng quân đội Hoa Kỳ (và các đồng minh, đối tác gia nhập cùng họ).
Cuối cùng, trong khi một Chiến dịch Đổ bộ sẽ nhắm vào lực lượng tiền tuyến chuyên nghiệp, tận tụy nhất của Đài Loan, và một Chiến dịch Tấn công Hỏa lực Liên hợp sẽ nhắm vào các mục tiêu quân sự và chính trị quan trọng một cách chính xác, thì một Chiến dịch Phong tỏa Liên hợp sẽ nhắm vào điểm yếu của Đài Loan: khả năng phục hồi và quyết tâm của xã hội Đài Loan nói chung dưới sự căng thẳng và xung đột kéo dài. Đài Loan có những vết nứt xã hội phức tạp và các phe phái, bao gồm các nhóm thanh niên hậu hiện đại và những người yêu mến Trung Quốc cao tuổi.
Kết luận
Chiến tranh đại diện cho những rủi ro lớn nhất, và không ai có thể tự tin dự đoán sự kiện sẽ diễn ra như thế nào. Kết quả sẽ phụ thuộc vào các hoàn cảnh cụ thể của thời điểm và những yếu tố khó lường như may rủi, điều kiện thời tiết, quyết định lãnh đạo, thông tin tình báo và khả năng chiến đấu của mỗi bên trong một cuộc khủng hoảng lớn và thử thách quyết định của họ. Việc chỉ tập trung vào các yếu tố kỹ thuật mà bỏ qua bức tranh tổng thể có thể dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng. Mặc dù chúng ta có thể chỉ ra các yếu tố thiết yếu liên quan, nhưng chúng ta thiếu chìa khóa để giải mã dứt khoát những bí ẩn của một tương lai không chắc chắn.
Vì vậy, tài liệu này cho độc giả một khuôn khổ để phân tích một cách nghiêm túc kịch bản tấn công Đài Loan và rút ra kết luận của riêng họ về những gì có thể xảy ra trong những điều kiện cụ thể. Điều rõ ràng là Bắc Kinh nhận thức được sự khó khăn vốn có của một cuộc tấn công qua eo biển và đang nhanh chóng xây dựng sức mạnh chiến đấu và khả năng để làm cho hành động này ngày càng khả thi hơn. Tuy nhiên, kết quả sẽ phụ thuộc vào quá nhiều yếu tố, và sẽ là thiếu trách nhiệm nếu suy đoán vượt ra ngoài những yếu tố mà tài liệu này đưa ra.
Một điều chưa được đề cập là sự gia tăng các tàu “tàu vận tải” trong ngành thương mại mà Conor Kennedy hiện nay đề cập trong nghiên cứu của mình. Những nền tảng đơn giản nhưng thực tế này có thể một phần thay thế cho các tàu đổ bộ nhỏ được thiết kế đặc biệt (tàu đổ bộ, xe tăng, tàu trung bình) mà Jennifer Rice đã trình bày. Cùng với những tàu “RO-RO” lớn mà Lonnie Henley và Michael Dahm đã thảo luận, những tàu nhỏ hơn nhưng rất nhiều này có thể tăng cường đáng kể cho bất kỳ nỗ lực đổ bộ nào. Chúng có thể giúp giảm bớt nhu cầu xây dựng tàu đổ bộ quy mô lớn nếu không sẽ cần thiết để hỗ trợ một chiến dịch có quy mô như vậy.
Một lĩnh vực đặc biệt khác cần theo dõi trong tương lai là Trung Quốc ngày càng gia tăng các hoạt động khả năng qua eo biển với quy mô ngày càng lớn – như đã thấy trong các cuộc diễn tập quân sự đang diễn ra. Điều này thể hiện một cam kết tài nguyên khổng lồ, điều này cho thấy lãnh đạo Trung Quốc coi trọng vấn đề này như thế nào. Các cuộc diễn tập chung ngày càng trở nên lớn hơn và phức tạp hơn mỗi năm.
Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là các hoạt động đổ bộ quy mô lớn cực kỳ khó thực hiện thành công ngay cả trong những điều kiện thuận lợi nhất. Người phòng thủ cũng có quyền quyết định, và đây không phải là một vấn đề tĩnh mà là một vấn đề rất nan giải, mà Đài Loan và các đối tác an ninh của nó có cơ hội tác động thông qua các khoản đầu tư khôn ngoan vào những khả năng cụ thể cũng như sự chuẩn bị và quyết tâm đầy đủ.
CMSI sẽ cố gắng cung cấp những hiểu biết dựa trên nghiên cứu về những lĩnh vực quan trọng này và các lĩnh vực khác trong khi vẫn còn thời gian để ngăn chặn thảm họa.
Biên dịch: Bảo Trâm
Tác giả: Tiến sĩ Andrew S. Erickson là Giáo sư Chiến lược (giáo sư chính thức) tại Viện Nghiên cứu Hàng hải Trung Quốc thuộc Học viện Hải quân Hoa Kỳ. Là một thành viên sáng lập cốt lõi, ông đã giúp thành lập CMSI và chính thức thành lập vào năm 2006 và đã đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của viện. Ông đã nhận Huy chương Dịch vụ Dân sự Xuất sắc của Hải quân, Giải thưởng Nghiên cứu Xuất sắc Dành cho Giảng viên Dân sự đầu tiên của NWC và Giải thưởng Ellis Joffe đầu tiên của NBR dành cho Nghiên cứu PLA.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của Nghiên cứu Chiến lược. Mọi trao đổi học thuật và các vấn đề khác, quý độc giả có thể liên hệ với ban biên tập qua địa chỉ mail: [email protected]