Nghiên Cứu Chiến Lược
  • Trang Chủ
  • Lĩnh vực
    • Kinh tế
    • Xã hội
    • Quốc phòng – an ninh
    • Chính trị
  • Khu vực
    • Châu Á
    • Châu Âu
    • Châu Mỹ
    • Châu Phi
    • Châu Đại Dương
  • Phân tích
    • Ý kiến độc giả
    • Chuyên gia
  • Thư viện
    • Sách
    • Tạp chí
    • Media
  • Podcasts
  • Giới thiệu
    • Ban Biên tập
    • Dịch giả
    • Đăng ký cộng tác
    • Thông báo
No Result
View All Result
  • Trang Chủ
  • Lĩnh vực
    • Kinh tế
    • Xã hội
    • Quốc phòng – an ninh
    • Chính trị
  • Khu vực
    • Châu Á
    • Châu Âu
    • Châu Mỹ
    • Châu Phi
    • Châu Đại Dương
  • Phân tích
    • Ý kiến độc giả
    • Chuyên gia
  • Thư viện
    • Sách
    • Tạp chí
    • Media
  • Podcasts
  • Giới thiệu
    • Ban Biên tập
    • Dịch giả
    • Đăng ký cộng tác
    • Thông báo
No Result
View All Result
Nghiên Cứu Chiến Lược
No Result
View All Result
Home Lĩnh vực Chính trị

Tổng quan về tình hình biểu tình, bạo loạn trên thế giới hiện nay và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam – Phần cuối

06/11/2025
in Chính trị, Phân tích
A A
0
Tổng quan về tình hình biểu tình, bạo loạn trên thế giới hiện nay và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam – Phần 1
0
SHARES
8
VIEWS
Share on FacebookShare on Twitter

Lời của Ban Biên tập: Trong những năm vừa qua, tình hình biểu tình, bạo loạn trên khắp thế giới nổ ra với tần suất ngày càng dày đặc. Điều đó phản ánh một thế giới dầy rẫy những mâu thuẫn. Để làm rõ được bản chất cũng như mối liên hệ của các phong trào biểu tình, bạo loạn trên khắp các châu lục, đồng thời đúc kết những kinh nghiệm, đưa ra nhiều gợi mở quan trọng đối với Việt Nam, tác giả Trương Quốc Lượng đã thực hiện một báo cáo khoa học có tựa đề: Báo cáo tổng quan về tình hình biểu tình, bạo loạn trên thế giới hiện nay và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam. Báo cáo này sẽ được Nghiên cứu Chiến lược đăng tải làm 3 phần. Trân trọng giới thiệu tới quý độc giả.

Tiếp nội dung phần 1 và phần 2

Bản chất chung của các cuộc bạo loạn, biểu tình

Trong hơn một thập niên trở lại đây, làn sóng biểu tình và bạo loạn bùng phát tại nhiều khu vực trên thế giới đã phản ánh sự cộng hưởng phức tạp giữa các yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội, đồng thời đặt ra nghi vấn về sự tồn tại của một mô thức lặp đi lặp lại vượt khỏi tính chất cục bộ của từng quốc gia. Việc soi chiếu các trường hợp biểu tình từ châu Âu, châu Á cho đến châu Phi hé lộ những điểm tương đồng đáng chú ý, gợi mở khả năng về một mẫu hình toàn cầu của sự bất ổn xã hội.

Thứ nhất, là vai trò của các khủng hoảng kinh tế – xã hội trong việc thổi bùng các phong trào phản kháng. Tại Anh và Pháp, lạm phát, chi phí sinh hoạt leo thang cùng với khủng hoảng nhập cư đã tạo thành mồi lửa cho các cuộc xuống đường. Ở Sri Lanka, sự kiệt quệ kinh tế và khủng hoảng nợ công đã đẩy hàng trăm nghìn người dân ra đường, trực tiếp dẫn tới sự sụp đổ của chính phủ. Trường hợp Philippines và Nepal lại cho thấy một biến thể khác của nguyên nhân, sự tham nhũng mang tính hệ thống, lợi ích nhóm và sự suy giảm lòng tin vào thể chế dân chủ trở thành động lực chính. Trong khi đó, một vài biểu hiện mới như tại Mali Châu Phi hay Thổ Nhĩ Kỳ, bất mãn chính trị dưới chế độ quân sự hoặc trong bối cảnh chính quyền siết chặt không gian đối lập đã khiến khủng hoảng thể chế bùng nổ dưới hình thức bạo loạn. Điểm chung xuyên suốt ở đây là dù khác biệt về cấu trúc chính trị, hệ tư tưởng thì các xã hội này đều đang đối diện với tình trạng xói mòn niềm tin vào năng lực quản trị của nhà nước và hệ quả tất yếu là sự gia tăng tính dễ tổn thương của trật tự chính trị – xã hội.

Thứ hai, một điểm tương đồng mang tính chất toàn cầu là sự biến đổi trong phương thức tổ chức biểu tình. Khác với các phong trào xã hội trước đây vốn dựa nhiều vào các tổ chức có tính cấu trúc chặt chẽ, tức là các nhóm được tổ chức theo hệ thống phân cấp rõ ràng, có lãnh đạo trung tâm, kế hoạch và kênh huy động chính thức. Biểu tình trong thế kỷ XXI thường dựa vào mạng lưới linh hoạt thông qua các nền tảng số, tự phát, nơi các cá nhân hoặc nhóm nhỏ có thể tham gia và phối hợp mà không cần sự chỉ đạo tập trung, cho thấy vai trò ngày càng lớn của công nghệ số, đặc biệt là mạng xã hội đối với các cuộc biểu tình, bạo loạn. Các nền tảng như Facebook, Twitter/X hay TikTok không chỉ là công cụ truyền tải thông điệp mà còn trở thành hạ tầng tổ chức phi chính thức, cho phép các cá nhân kết nối lỏng lẻo nhưng lại có khả năng huy động nhanh chóng và tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ. Thực tiễn tại Nepal hay hầu như các phong trào giai đoạn gần đây đều chứng minh rõ ràng nhất điều này, khi các video biểu tình được lan truyền trực tiếp qua TikTok hay các hashtag chống tham nhũng trở thành kênh huy động hiệu quả hơn cả những phong trào chính trị truyền thống. Điều này không chỉ thay đổi bản chất của biểu tình, từ tính tổ chức tập trung sang mô thức phi tập trung, mà còn đặt ra thách thức lớn cho chính quyền trong việc kiểm soát. Ngay chính tại Nepal, chính sách cấm hoặc hạn chế mạng xã hội lại càng làm bùng nổ sự phẫn nộ, bởi điều đó không những không triệt tiêu được động lực biểu tình mà còn trở thành chất xúc tác củng cố nhận thức về sự đàn áp thể chế.

Thứ ba, tính lặp lại đáng chú ý trong thành phần xã hội tham gia biểu tình. Dù ở Anh, Pháp, Indonesia hay Nepal, lực lượng đi đầu thường là sinh viên và giới trẻ đô thị, tầng lớp vốn nhạy cảm với bất công xã hội và dễ dàng huy động qua không gian số. Sự hiện diện của công đoàn, người lao động và tầng lớp lao động nghèo tại Indonesia hay Bangladesh bổ sung thêm chiều kích kinh tế cho phong trào, khi biểu tình không chỉ mang tính chất phản kháng chính trị mà còn gắn trực tiếp với yêu cầu cải thiện đời sống. Trong nhiều trường hợp, các cộng đồng di cư hoặc thiểu số cũng trở thành một bộ phận quan trọng, như tại Anh, nơi bất mãn với chính sách nhập cư kết hợp với áp lực kinh tế đã thúc đẩy các khu vực ngoại ô trở thành điểm nóng. Ở Philippines, sự tham gia của cộng đồng tôn giáo trong vai trò kêu gọi công lý và minh bạch đã chứng minh rằng biểu tình không chỉ là cuộc đấu tranh của một nhóm lợi ích, mà là sự hội tụ rộng rãi của nhiều tầng lớp xã hội khác nhau. Nhìn từ lăng kính thuyết âm mưu, có thể đặt câu hỏi liệu sự đồng dạng này phản ánh sự tự phát tự nhiên, hay còn cho thấy sự lan truyền có chủ đích của các chiến lược huy động xã hội theo một “kịch bản” nhất định.

Thứ tư, cách thức phản ứng của chính quyền đối với các cuộc biểu tình, bạo loạn. Dù là quốc gia dân chủ phương Tây hay chế độ quân sự châu Phi, các phản ứng của nhà nước đều xoay quanh mô thức kép là vừa đối thoại, nhượng bộ một phần, vừa áp dụng biện pháp cưỡng chế, an ninh và pháp lý. Tại Pháp hay Anh, chính quyền vừa cam kết xem xét chính sách dân sinh, vừa triển khai lực lượng cảnh sát chống bạo động để khống chế điểm nóng. Ở Philippines, chính phủ phát đi tín hiệu đối thoại nhưng đồng thời bắt giữ một số thủ lĩnh phong trào. Còn ở Nepal, Indonesia thì mặc dù đã triển khai quân đội để giữ gìn an ninh nhưng vẫn nhượng bộ và đáp ứng yêu cầu của lực lượng bạo loạn, Nepal có tân Thủ tướng do chính lực lượng tham gia bạo loạn bầu, tiến hành giải tán Quốc hội và đang trong giai đoạn chờ bầu cử Quốc hội mới. Mẫu hình này gợi mở một câu hỏi quan trọng rằng liệu các chính quyền đang học hỏi lẫn nhau trong việc xử lý khủng hoảng xã hội, hay đây là kết quả của một dạng kịch bản quản trị khủng hoảng được chuẩn hóa ở cấp độ toàn cầu. Nhìn dưới thuyết âm mưu, sự giống nhau này khiến nhiều người nghi ngờ về vai trò của các “cố vấn ngầm” hoặc ảnh hưởng từ những trung tâm quyền lực ngoài quốc gia, vốn khuyến nghị các chính phủ sử dụng cùng một chiến lược “cây gậy và củ cà rốt” để kiểm soát phong trào xã hội.

Thứ năm, truyền thông quốc tế, các tổ chức nhân quyền và áp lực ngoại giao đóng vai trò vừa là kênh giám sát vừa là công cụ ảnh hưởng. Đây là yếu tố khuếch đại từ bên ngoài, vốn là một phần tất yếu trong mọi cuộc biểu tình hiện đại. Tại Nepal, cộng đồng quốc tế lên án việc siết chặt tự do thông tin. ở Philippines, EU và các tổ chức nhân quyền bày tỏ lo ngại, Mỹ và EU thường sử dụng đòn bẩy nhân quyền để tạo áp lực ngoại giao. Điểm chung là can thiệp thường dừng lại ở mức tuyên bố và áp lực chính trị, ít khi dẫn tới hành động trực tiếp. Tuy nhiên, dưới góc nhìn sâu hơn, có thể đặt nghi vấn rằng chính sự đưa tin dồn dập và có định hướng từ truyền thông quốc tế đã góp phần định hình nhận thức, khích lệ phong trào và đôi khi thổi phồng mức độ bất ổn. Truyền thông vì vậy không chỉ là nhân tố ngoại vi, mà có thể được coi là một phần của chuỗi công cụ trong việc khuếch đại và duy trì làn sóng phản kháng.

Các trường hợp điển hình đã minh họa rõ ràng cho sự tương đồng này. Sự đa dạng bối cảnh càng làm nổi bật điểm chung, bởi nó chứng minh rằng bất chấp khác biệt về địa lý, văn hóa hay thể chế, các xã hội đều có khả năng phát sinh những phản ứng tương tự khi đối diện với cùng loại khủng hoảng. Chính từ đây, thuyết âm mưu đặt ra câu hỏi, phải chăng có một mô hình chung được thiết kế sẵn, hoặc ít nhất được khuyến khích để lan tỏa, nhằm làm suy yếu sự ổn định nội bộ của các quốc gia?

Một cách lý giải khác, mang tính học thuật nhưng không loại trừ khả năng thuyết âm mưu, là toàn cầu hóa và sự hội nhập công nghệ đã khiến các phong trào xã hội học hỏi lẫn nhau và nhanh chóng đồng dạng về cấu trúc. Nhưng sự đồng dạng này cũng có thể được diễn giải là kết quả của những tác động ẩn giấu từ bên ngoài, khi các trung tâm quyền lực quốc tế khai thác sự bất mãn nội bộ để phục vụ lợi ích chiến lược của mình. Như vậy, sự tương đồng trong nguyên nhân, phương thức tổ chức, thành phần tham gia và phản ứng của chính quyền không đơn thuần chỉ là hiện tượng xã hội học tự nhiên, mà còn có thể là bằng chứng của một “logic ngầm” vận hành sau hậu trường. Điều này càng làm cho các cuộc biểu tình và bạo loạn trong thập niên vừa qua không chỉ là sự kiện nội địa, mà còn là mắt xích trong chuỗi chuyển động toàn cầu, nơi sự đan xen giữa yếu tố kinh tế – xã hội, thể chế – chính trị và truyền thông quốc tế đã tạo thành cấu trúc nhất quán đến mức khó có thể coi là ngẫu nhiên.

Dù mang nhiều hình thức và được biểu đạt trong những bối cảnh khác nhau, từ các thành phố lớn ở châu Âu cho tới những trung tâm chính trị, tôn giáo tại châu Á hay những quốc gia đang trong khủng hoảng an ninh tại châu Phi, các phong trào này đều phản ánh những bất cân xứng sâu xa giữa nhà nước và xã hội, giữa quyền lực chính trị và nhu cầu dân sinh, giữa các giá trị chính danh truyền thống và những đòi hỏi mới của thế hệ trẻ. Bản chất và nguyên nhân cốt lõi của vấn đề, như nhiều nhà nghiên cứu quan hệ quốc tế đã chỉ ra, không chỉ dừng ở những mâu thuẫn cục bộ, mà còn gắn liền với khủng hoảng niềm tin thể chế và những xung đột về quyền lực chính trị – an ninh, vốn được định hình trong một bối cảnh toàn cầu ngày càng chịu ảnh hưởng mạnh bởi các yếu tố phi truyền thống.

Thứ nhất, xét từ góc độ các yếu tố chủ quan thì thường phản ánh những áp lực cấu trúc lâu dài và những giới hạn của thể chế chính trị. Một trong những động lực quan trọng là bất bình kinh tế và xã hội, bao gồm chi phí sinh hoạt tăng cao, lạm phát, thất nghiệp, sự phân bổ bất công về thu nhập và phúc lợi xã hội. Khi các tầng lớp dân cư, đặc biệt là thế hệ trẻ, cảm nhận rằng mình bị bỏ rơi hoặc không được đại diện đầy đủ, các áp lực xã hội tích tụ sẽ dễ dàng bùng phát thành các phong trào phản kháng có tổ chức hoặc bạo lực cục bộ. Suy giảm niềm tin vào thể chế là yếu tố thứ hai mang tính cấu trúc. Tham nhũng, quản trị yếu kém, hạn chế minh bạch và trách nhiệm giải trình không chỉ làm giảm lòng tin của công chúng vào khả năng quản lý của nhà nước mà còn tạo ra hiệu ứng lan tỏa tiêu cực, trong đó các sự kiện khơi mào nhỏ có thể kích hoạt các phong trào rộng lớn và khó kiểm soát. Khát vọng công bằng và quyền con người cũng là nguyên nhân nội sinh then chốt, đặc biệt tại các quốc gia có thể chế hạn chế, nơi nhu cầu về tự do, dân chủ và quyền cơ bản thường trở thành mục tiêu trung tâm của phong trào, đồng thời phản ánh những mâu thuẫn về đại diện chính trị và bất bình xã hội kéo dài. Ngoài ra, xung đột bản sắc và khu vực, bao gồm mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo hoặc khu vực, đóng vai trò chất xúc tác, khiến phong trào dễ lan tỏa và đôi khi biến dạng thành bạo lực cục bộ, làm gia tăng rủi ro đối với ổn định nội địa.

Thứ hai, các yếu tố khách quan liên quan trực tiếp tới cạnh tranh quyền lực và ảnh hưởng chiến lược. Trong nhiều trường hợp, các phong trào biểu tình được gián tiếp hoặc trực tiếp lợi dụng để định hình quyền lực khu vực hoặc mở rộng ảnh hưởng chiến lược. Sự quan tâm, hậu thuẫn về tài chính, kỹ thuật hoặc truyền thông từ các nước lớn tạo cơ hội cho lực lượng đối lập trong nước gia tăng sức ép chính trị, đồng thời đặt chính quyền vào thế khó trong việc cân bằng ngoại giao và ổn định nội bộ. Hậu thuẫn quốc tế và mạng lưới xã hội dân sự toàn cầu cũng đóng vai trò quan trọng trong việc khuếch đại sức mạnh của các phong trào. Các tổ chức quốc tế, cơ quan nhân quyền và các mạng lưới xã hội dân sự cung cấp nền tảng truyền thông, công cụ pháp lý và giám sát, làm gia tăng sức ép quốc tế đối với chính quyền, đồng thời giúp phong trào quốc tế hóa và nâng cao tính chính danh trong mắt dư luận quốc tế. Hiệu ứng lan tỏa khu vực là một khía cạnh chiến lược khác, khi các phong trào tại một quốc gia truyền cảm hứng hoặc tạo ra mô hình cho các nước láng giềng, hình thành chuỗi phản ứng khu vực, tăng cường tính bất ổn và rủi ro chiến lược, đồng thời đặt ra thách thức đối với cấu trúc quyền lực và chính sách đối ngoại của các nước lớn.

Từ góc độ quan hệ quốc tế, có thể nói rằng bản chất của các phong trào biểu tình và bạo loạn đương đại không thể tách rời khỏi các giá trị nền tảng của quyền lực toàn cầu. Trật tự thế giới đang trong quá trình dịch chuyển, với sự suy giảm tính chính danh của các thể chế quốc gia, sự trỗi dậy của các chủ thể phi nhà nước, và sự gia tăng ảnh hưởng của không gian công nghệ. Các thuyết âm mưu, trong bối cảnh này, không chỉ là “sản phẩm phụ” của bất ổn xã hội, mà còn là biểu hiện của cuộc đấu tranh về quyền lực mềm và quyền lực diễn ngôn. Việc các phong trào ở châu Âu gắn bất mãn dân sinh, hay các phong trào ở châu Á cáo buộc sự can thiệp của phương Tây, hoặc chính quyền châu Phi coi bất ổn là kết quả của “chiến lược cường quốc”, đều cho thấy vai trò trung tâm của diễn ngôn trong việc xác định bản chất của biểu tình. Thực tế, thuyết âm mưu tồn tại như một ngôn ngữ chính trị thay thế, giúp các nhóm xã hội yếu thế lý giải hiện thực bất công, đồng thời tạo công cụ huy động tập thể trước những đối thủ tưởng chừng không thể vượt qua.

Như vậy, có thể khẳng định rằng biểu tình và bạo loạn trong thế kỷ XXI không đơn thuần là những hiện tượng phản kháng tự phát, mà là sự kết hợp phức tạp giữa khủng hoảng kinh tế – xã hội, bất ổn thể chế chính trị, khoảng cách thế hệ, và sự nổi lên của không gian công nghệ thông tin, được soi chiếu và khuếch đại bởi những thuyết âm mưu gắn liền với tranh đấu quyền lực trong và ngoài quốc gia. Điểm chung nằm ở việc các nguyên nhân cốt lõi này không chỉ tạo ra bùng phát nhất thời, mà còn quyết định mức độ kéo dài và khả năng chuyển hóa thành bạo loạn hay thay đổi chính trị. Chính sự giao thoa giữa các yếu tố cấu trúc và các thuyết âm mưu về quyền lực đã khiến biểu tình không còn chỉ là một hình thức phản ứng xã hội, mà trở thành một phần của cuộc đấu tranh toàn cầu về trật tự chính trị và giá trị.

Các biến động xã hội trong thế kỷ XXI cần được nhìn nhận không chỉ dưới lăng kính chính trị trong nước mà còn trong mối quan hệ với cấu trúc quyền lực toàn cầu. Trật tự thế giới hiện nay đang trải qua giai đoạn chuyển tiếp sâu sắc, khi những định hướng chiến lược của các cường quốc từ chính sách kinh tế, quân sự đến ngoại giao đa phương tái định hình cán cân quyền lực khu vực và toàn cầu. Sự phân cực quyền lực giữa các siêu cường truyền thống và các trung tâm quyền lực mới, cùng với xu hướng đa cực hóa ngày càng rõ nét, đã tạo ra một môi trường cạnh tranh chiến lược phức tạp, trong đó các quốc gia và tổ chức quốc tế phải liên tục điều chỉnh chính sách để duy trì ổn định khu vực và bảo vệ lợi ích chiến lược. Từ góc độ học thuyết quan hệ quốc tế, hiện tượng này phản ánh cả các lý thuyết cấu trúc quyền lực lẫn các lý thuyết về trật tự và bất ổn, quyền lực không chỉ được phân bổ dựa trên năng lực quân sự hay kinh tế mà còn phụ thuộc vào khả năng điều phối mạng lưới xã hội, tác động của các định chế quốc tế và quyền lực mềm trong thông tin, truyền thông, và giá trị văn hóa. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, các rủi ro nội chính mang tính lan truyền, khi bất ổn trong một quốc gia có thể ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng, luồng vốn, và vị thế chiến lược của các đối tác hoặc đối thủ nước ngoài.

Điều này dẫn đến một thực tế khoa học chính trị quan trọng rằng quyền lực ngày càng trở nên phi tập trung, đa tầng và đa chiều, nơi các mối quan hệ liên minh, thỏa thuận đa phương và hợp tác khu vực đóng vai trò quyết định trong việc duy trì cân bằng và ổn định. Hơn nữa, các hiệu ứng xã hội trong bối cảnh này thể hiện xu hướng tăng cường tác động của các mạng lưới xã hội dân sự, tổ chức phi chính phủ và các nhóm cộng đồng vào quá trình ra quyết định và cấu trúc quyền lực, khiến các mô hình chính trị truyền thống đối mặt với áp lực điều chỉnh nhanh chóng. Những thay đổi này tạo ra một lớp động lực mới cho quan hệ quốc tế không chỉ là mối quan hệ giữa các quốc gia, mà còn là tương tác giữa quyền lực nhà nước, quyền lực xã hội và quyền lực toàn cầu, buộc các học thuyết về trật tự thế giới phải xem xét sự hội tụ của các yếu tố kinh tế, xã hội, văn hóa và công nghệ trong việc duy trì ổn định chiến lược.

Trong bối cảnh trật tự quốc tế đang chuyển mình, các động lực xã hội nội địa và các yếu tố phi nhà nước trở thành nhân tố quan trọng, đồng thời phản ánh một thực tế rằng cấu trúc quyền lực hiện nay không thể được hiểu một cách đơn giản theo mô hình song cực hay đơn cực truyền thống, mà phải được phân tích như một mạng lưới đa chiều, đa tầng và linh hoạt.

Tác động và dự báo

Trong bối cảnh chính trị – xã hội toàn cầu hiện nay, các phong trào phản kháng, dù xuất phát từ nguyên nhân kinh tế, xã hội hay chính trị, đều tạo ra tác động lan tỏa vượt ra ngoài phạm vi của từng sự kiện đơn lẻ.

Ở cấp độ ngắn hạn, những phong trào này thường gây chấn động hệ thống kinh tế, xã hội và chính trị, dẫn đến xáo trộn trong hoạt động quản trị, suy giảm niềm tin vào thể chế, và đứt gãy tạm thời trong chuỗi cung ứng hoặc dịch vụ công. Các cú sốc ngắn hạn này không chỉ biểu hiện ở hiệu ứng vật chất như đình trệ sản xuất, giảm tăng trưởng hay tăng chi phí an ninh mà còn gắn chặt với hiệu ứng tâm lý và xã hội, làm gia tăng căng thẳng giữa các tầng lớp, thế hệ và nhóm lợi ích khác nhau trong xã hội. Sự xuất hiện đồng thời của các yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội khiến các phong trào phản kháng trở thành một chỉ báo nhạy cảm về sức khỏe thể chế và mức độ ổn định xã hội. Trong dài hạn, các phong trào này tác động sâu sắc đến cấu trúc thể chế và cơ chế ra quyết định, đồng thời định hình các chu kỳ bất ổn chính trị và xã hội. Khi niềm tin vào quản trị công bị bào mòn, các hệ thống chính trị có thể rơi vào trạng thái trì trệ hoặc phản ứng theo chu kỳ, đàn áp, nhượng bộ cục bộ, sau đó lại tái bùng phát bất mãn. Hiện tượng này không chỉ giới hạn trong biên giới quốc gia mà còn lan tỏa ở phạm vi khu vực, làm thay đổi cấu trúc quyền lực và quan hệ giữa các quốc gia láng giềng. Sự lặp lại liên tục của các phong trào phản kháng làm bộc lộ những giới hạn cố hữu của cấu trúc quyền lực, phơi bày sự thiếu hiệu quả trong cơ chế phân phối tài nguyên, quản trị công và bảo vệ quyền lợi công dân, từ đó tạo ra những chu kỳ dài hạn của bất ổn thể chế.

Ở phạm vi khu vực của các phong trào này thể hiện rõ tác động thông qua hai cơ chế chính.

Thứ nhất, hiệu ứng lan tỏa của các bất ổn nội địa không chỉ là hiện tượng truyền cảm hứng hay mô phỏng phong trào, mà còn phản ánh một cơ chế phức hợp tác động lên cấu trúc quyền lực khu vực. Khi một quốc gia rơi vào khủng hoảng chính trị – xã hội, các nước láng giềng không chỉ quan tâm đến nguy cơ lây lan bất ổn trên biên giới, mà còn phải đánh giá tác động lên chuỗi cung ứng, luồng đầu tư, di cư và an ninh kinh tế – xã hội. Trong bối cảnh liên kết kinh tế, văn hóa và công nghệ ngày càng chặt chẽ, những bất ổn nội địa trở thành biến số chiến lược, ảnh hưởng tới định hướng chính sách, ưu tiên an ninh và khả năng hợp tác xuyên biên giới. Thêm vào đó, các tổ chức khu vực và liên minh đa phương thường phải cân nhắc giữa việc duy trì nguyên tắc “không can thiệp” và yêu cầu ổn định, từ đó tạo ra những hình thái giám sát, điều phối hoặc can thiệp bán chính thức. Hiệu ứng lan tỏa này cũng làm nổi bật sự nhạy cảm chiến lược của các quốc gia trong việc bảo vệ niềm tin vào thể chế, củng cố quyền lực mềm và bảo đảm vị thế cạnh tranh trong khu vực, đồng thời đặt ra những thách thức cho cơ chế phòng ngừa và giảm thiểu rủi ro tập thể trong không gian địa chính trị ngày càng phức tạp.

Thứ hai, các phong trào phản kháng kéo dài không chỉ tác động đến cấu trúc nội bộ của quốc gia, mà còn gây xói mòn niềm tin vào thể chế, làm suy giảm khả năng hoạch định chính sách và năng lực thực thi của nhà nước. Khi các thể chế yếu đi, các mối quan hệ chính trị – an ninh khu vực bị tái định hình một cách gián tiếp nhưng sâu sắc, các quốc gia láng giềng phải điều chỉnh chiến lược ngoại giao, cơ cấu liên minh và khả năng phối hợp an ninh để ứng phó với những bất ổn tiềm tàng. Trong bối cảnh này, các cường quốc có thể can thiệp dưới nhiều hình thức, từ hỗ trợ gián tiếp thông qua truyền thông và ngoại giao, đến cung cấp nguồn lực vật chất hoặc chính trị cho các lực lượng phản kháng, nhằm củng cố vị thế chiến lược hoặc giành lợi thế địa chính trị. Hậu quả là sự cân bằng quyền lực khu vực không còn dựa hoàn toàn vào các thỏa thuận truyền thống hay năng lực quân sự, mà chịu tác động ngày càng nhiều từ các biến số xã hội – chính trị nội địa của từng quốc gia. Những phong trào này, nếu kéo dài, có thể tạo ra “hiệu ứng domino” trong khu vực, khi bất ổn của một nước trở thành cơ hội hoặc áp lực đối với các nước khác, đồng thời thúc đẩy sự cạnh tranh quyền lực ngầm, mở rộng không gian chiến lược cho các cường quốc khai thác, và làm phức tạp thêm nỗ lực duy trì ổn định khu vực theo chuẩn mực đa phương.

Ở phạm vi toàn cầu, các phong trào phản kháng hiện nay càng trở nên quan trọng nhờ sự lan tỏa thông qua mạng xã hội và công nghệ thông tin, biến bất mãn cục bộ thành hiện tượng xuyên biên giới. Quy mô truyền thông toàn cầu giúp phong trào không chỉ thu hút sự chú ý quốc tế mà còn gia tăng sức ép ngoại giao và kinh tế đối với chính quyền sở tại. Sự can dự của các tổ chức quốc tế, các diễn đàn nhân quyền và mạng lưới xã hội toàn cầu tạo ra áp lực chuẩn mực và giám sát, đồng thời củng cố diễn ngôn chính danh cho những phong trào phản kháng. Tuy nhiên, việc phong trào trở thành đối tượng của các chiến lược ảnh hưởng quốc tế cũng đồng thời làm tăng rủi ro bị chính quyền hoặc phe đối lập trong nước gán ghép các yếu tố “ngoại can thiệp”, dẫn đến sự chính trị hóa và phân cực xã hội.

Trong tương lai, các phong trào phản kháng được dự báo sẽ còn tiếp tục gia tăng cả về quy mô, tính chất lẫn sự phức tạp. Ổn định tạm thời xuất hiện khi chính quyền triển khai các biện pháp ngắn hạn, như hỗ trợ kinh tế, điều chỉnh chính sách hay kiểm soát an ninh, nhằm xoa dịu áp lực công chúng và bảo đảm trật tự xã hội. Tuy nhiên, tính tạm thời này chỉ có tác dụng “che lấp” các bất ổn bề ngoài mà không giải quyết được nguyên nhân cấu trúc gốc rễ, từ đó tiềm ẩn nguy cơ phong trào bùng phát trở lại theo chu kỳ, đôi khi với quy mô và mức độ cường độ cao hơn. Chu kỳ bất ổn kéo dài thường xuất hiện khi các vấn đề kinh tế – xã hội, suy giảm niềm tin vào thể chế, bất công phân phối quyền lực và các thách thức an ninh không được khắc phục, khiến phong trào phản kháng trở thành một yếu tố liên tục tác động lên quyền lực và cấu trúc xã hội. Trạng thái này không chỉ gây áp lực trực tiếp lên quản trị quốc gia mà còn thúc đẩy biến đổi thể chế một cách gián tiếp, buộc các quốc gia và khu vực phải thích ứng với những thay đổi liên tục về cân bằng quyền lực, định hướng chính sách và cơ chế quản trị. Hiệu ứng này lan tỏa vượt ra ngoài biên giới quốc gia. Khi các phong trào phản kháng kéo dài, chúng tạo ra những tín hiệu cảnh báo cho các nước láng giềng và tổ chức khu vực về mức độ bất ổn tiềm tàng, từ đó điều chỉnh chính sách đối ngoại, cơ chế phối hợp an ninh, hoặc áp dụng các biện pháp ngăn chặn hiệu ứng lan tỏa. Đồng thời, các cường quốc có thể tận dụng những thời điểm bất ổn này để củng cố ảnh hưởng chiến lược hơn nữa, từ đó định hình lại cấu trúc quyền lực khu vực và toàn cầu.

Nhìn chung, các phong trào biểu tình, bạo loạn hiện nay không chỉ dừng lại ở việc thay đổi cấu trúc nội bộ quốc gia mà còn định hình lại cấu trúc quyền lực khu vực và trật tự quốc tế. Sự kết hợp giữa áp lực xã hội nội địa, hiệu ứng lan tỏa khu vực và vai trò của các tác nhân toàn cầu khiến các phong trào này trở thành yếu tố chiến lược trong quan hệ quốc tế, ảnh hưởng đến các xu hướng chính trị, kinh tế và an ninh trên phạm vi rộng. Những tác động ngắn hạn có thể được quản lý, nhưng hệ quả dài hạn, bao gồm thay đổi thể chế, tái cấu trúc quyền lực và xu hướng chính trị khu vực, đòi hỏi các chính quyền và tổ chức quốc tế phải đánh giá cẩn trọng, phối hợp linh hoạt và xây dựng các chiến lược chủ động để duy trì ổn định bền vững trong môi trường toàn cầu phức tạp hiện nay.

Vấn đề đặt ra cho Việt Nam và một số gợi mở

Trong bối cảnh khu vực và thế giới liên tục chứng kiến các làn sóng biểu tình, phản kháng xã hội và bất ổn chính trị, Việt Nam không thể đứng ngoài các tác động lan tỏa. Với đặc thù là một quốc gia đang trong quá trình phát triển, có sự đa dạng về tôn giáo, dân tộc và sự chênh lệch phát triển vùng miền, Việt Nam đối diện với cả cơ hội và nguy cơ từ các biến động quốc tế cũng như những vấn đề nội sinh trong xã hội. Những diễn biến gần đây, cho thấy rằng dù Việt Nam được đánh giá là một quốc gia ổn định, nhưng những nguy cơ bất ổn không hề là giả thuyết xa vời. Các trường hợp này trở thành bài học quan trọng để nhìn nhận rõ ràng hơn những vấn đề đặt ra cho Việt Nam, từ đó xây dựng cơ chế quản trị xã hội và chiến lược đối ngoại thích ứng.

Những bài học lịch sử và thực tiễn hiện nay đều nhấn mạnh rằng Việt Nam phải duy trì cảnh giác cao độ trước các âm mưu, diễn biến bất ngờ từ bên ngoài, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng phòng ngừa và ứng phó kịp thời trước những biến động. Điều này đòi hỏi một cách tiếp cận toàn diện, kết hợp hài hòa các yếu tố chính trị, kinh tế, quân sự và ngoại giao để hình thành sức mạnh tổng hợp, bảo đảm khả năng ứng phó linh hoạt với mọi tình huống. Trên cơ sở kế thừa và phát huy những giá trị cốt lõi trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Việt Nam xây dựng nền chính trị vững chắc và thực thi đường lối đối ngoại khôn khéo, vừa giữ vững độc lập chủ quyền, vừa tạo môi trường thuận lợi cho phát triển bền vững, đồng thời củng cố vị thế quốc tế trước những thách thức toàn cầu và khu vực. Trong đó, cần xác định rõ những vấn đề trọng tâm và ưu tiên hàng đầu trên cơ sở phát huy toàn diện vai trò và tiềm lực đất nước.

Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam cần tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo tiên phong và tuyệt đối, coi đây là trụ cột vững chắc đảm bảo mọi thành tựu và tiến trình phát triển của đất nước. Trên cơ sở kế thừa và phát huy truyền thống dựng nước, giữ nước của dân tộc, cùng nền tảng lý luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, việc kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội phải được đặt lên hàng đầu, đảm bảo quyền lợi tối thượng của quốc gia và dân tộc vượt trên mọi lợi ích cục bộ hay lợi ích nhóm. Cùng với đó, tăng cường sức mạnh đoàn kết toàn dân, lấy nhân dân làm trung tâm trong hoạch định chính sách và tổ chức thực thi. Việc phát huy nền dân chủ toàn diện, gắn liền với thượng tôn pháp luật và kỷ cương quốc gia, đồng thời khuyến khích sự tham gia tích cực của toàn thể nhân dân vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là điều kiện quyết định để tạo ra sức mạnh tổng hợp, đảm bảo ổn định và bền vững trước những biến động và thách thức nội tại lẫn bên ngoài. Duy trì tinh thần cống hiến không ngừng vì độc lập, tự do, chủ quyền và phồn vinh dân tộc như kim chỉ nam xuyên suốt mọi hành động của Đảng. Sự kiên định với vai trò lãnh đạo, đoàn kết toàn dân và ưu tiên quyền lợi quốc gia sẽ giúp Việt Nam vững vàng trước thử thách, đồng thời tạo nền tảng vững chắc cho phát triển bền vững và nâng cao vị thế trên trường quốc tế.

Thứ hai, Đảng cần tiếp tục quyết liệt đấu tranh, ngăn chặn mọi hiện tượng tự diễn biến, tự chuyển hóa, đồng thời củng cố công tác Đảng toàn diện, trong sạch, vững mạnh, để mọi quyết sách đều hướng tới lợi ích chung của dân tộc. Một trong những yếu tố dễ kích động phản kháng xã hội là cảm nhận về sự bất công và thiếu minh bạch trong quản trị công. Ở nhiều quốc gia, từ châu Âu tới châu Á, tham nhũng và lợi ích nhóm là mồi lửa thổi bùng biểu tình. Việt Nam trong những năm gần đây đã đẩy mạnh chiến dịch chống tham nhũng với những kết quả đáng kể, song đây vẫn là lĩnh vực có độ nhạy cảm cao và thường xuyên bị lợi dụng để gây chia rẽ niềm tin xã hội. Bài học từ các phong trào biểu tình cho thấy, chỉ cần một sự kiện tham nhũng lớn hoặc một chính sách gây tranh cãi bị cho là phục vụ lợi ích nhóm, có thể trở thành chất xúc tác cho phản ứng dây chuyền. Từ thực tế này, Việt Nam cần tiếp tục kiên định với chính sách “không có vùng cấm” trong phòng chống tham nhũng, đồng thời nâng cao tính minh bạch của bộ máy công quyền qua cơ chế công khai tài chính, tăng cường giám sát xã hội và truyền thông chính sách. Việc phòng ngừa và xử lý minh bạch không chỉ làm trong sạch hệ thống, mà còn củng cố niềm tin xã hội như một “lá chắn” quan trọng chống lại các nỗ lực kích động.

Thứ ba, củng cố an sinh xã hội và xây dựng sự thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Nguyên nhân sâu xa dẫn đến các cuộc biểu tình và bạo động trên thế giới thường xuất phát từ bất mãn xã hội liên quan đến khó khăn kinh tế, chênh lệch giàu nghèo và cảm giác bị bỏ rơi. Ở Việt Nam, dù tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo đạt nhiều kết quả tích cực, vẫn tồn tại mất cân bằng giữa các vùng, đặc biệt là giữa đô thị, nông thôn và vùng sâu, vùng xa. Điều này đòi hỏi phải thiết lập các kênh phản hồi trực tiếp từ cơ sở, giúp người dân có thể bày tỏ nhu cầu, bức xúc và quyền lợi, tránh để bất mãn tích tụ hoặc bị lợi dụng. Các chương trình an sinh xã hội cần được thiết kế toàn diện, không chỉ tập trung hỗ trợ tài chính mà còn hướng tới tạo cơ hội việc làm, giáo dục nghề nghiệp và tăng cường năng lực tự chủ kinh tế cho nhóm dễ bị tổn thương. Trong bối cảnh vận hành chính quyền hai cấp từ tháng 7/2025, việc gắn kết giữa Trung ương và địa phương càng trở nên quan trọng, cần tăng cường truyền thông, vận động và đào tạo, đảm bảo mọi chính sách được phổ biến rộng rãi, thống nhất và được nhân dân hiểu rõ[1]. Việc này vừa củng cố niềm tin xã hội, vừa tạo nền tảng cho sự ổn định, đoàn kết và phát triển bền vững.

Thứ tư, xây dựng và quản lý hệ thống truyền thông chủ động, linh hoạt. Trong kỷ nguyên số, truyền thông xã hội trở thành công cụ trung tâm của mọi phong trào phản kháng. Từ các cuộc “Cách mạng Màu” ở Đông Âu đến các cuộc biểu tình ở Nepal vừa qua cho thấy mạng xã hội vừa là không gian huy động, vừa là kênh lan truyền các thông tin, kể cả tin giả có khả năng thổi bùng sự bất mãn. Việt Nam cũng đã từng trải qua những đợt “nhiễu loạn truyền thông” khi có sự lan truyền thông tin thiếu kiểm chứng trên mạng xã hội, dẫn đến tập hợp đám đông phản đối một số chính sách. Vụ việc biểu tình phản đối dự thảo Luật Đặc khu năm 2018 là một ví dụ điển hình khi thông tin chưa chính xác, thậm chí bị xuyên tạc, lan truyền nhanh chóng trên mạng đã tạo ra phản ứng xã hội ngoài tầm kiểm soát ban đầu[2]. Điều này cho thấy, việc quản trị truyền thông không thể chỉ là ngăn chặn hay xử lý sau khi sự việc xảy ra, mà cần một chiến lược chủ động cung cấp thông tin, minh bạch từ sớm, cũng như ứng dụng công nghệ số để theo dõi, phân tích xu hướng dư luận. Đặc biệt, cần xây dựng mạng lưới truyền thông đa chiều, trong đó có sự tham gia của xã hội dân sự, để giảm thiểu khoảng trống thông tin vốn dễ bị lấp đầy bởi các thuyết âm mưu hoặc chiến dịch tâm lý từ bên ngoài.

Thứ năm, tăng cường đào tạo và quản lý nhân lực trẻ thời đại số. Việt Nam có lực lượng dân số đông, tương đối trẻ, đây là cơ hội phát triển lực lượng nhân lực trẻ, năng động và sáng tạo, đồng thời cần nâng cao nhận thức về hiểu biết về các giá trị lịch sử đạo đức, đặc biệt là thế hệ Gen Z dễ nhạy cảm và non nớt trước xã hội để tận dụng các nguồn lực vào phát triển đất nước. Để đạt được mục tiêu này, trước hết cần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, kết hợp kiến thức chuyên môn với kỹ năng mềm, tư duy phản biện, kỹ năng lãnh đạo và khả năng thích ứng trong môi trường thay đổi nhanh. Các chương trình đào tạo nên mở rộng cơ hội trải nghiệm thực tiễn, khởi nghiệp, nghiên cứu khoa học và dự án cộng đồng, giúp thanh niên vừa phát huy sáng tạo, vừa gắn kết với nhu cầu thực tế của xã hội. Bên cạnh đó, việc thiết lập các cơ chế tham vấn và đối thoại thường xuyên giữa thanh niên với chính quyền Trung ương và địa phương là cần thiết. Những cơ chế này không chỉ khai thác trí tuệ, năng lực và năng lượng sáng tạo của giới trẻ mà còn tạo kênh phản hồi để giảm nguy cơ bất mãn, hướng các ý tưởng tích cực vào phát triển cộng đồng. Đồng thời, Việt Nam cần khuyến khích môi trường việc làm linh hoạt, chính sách hỗ trợ khởi nghiệp, đào tạo nghề và kết nối với nền kinh tế số, nhằm tạo động lực cho thanh niên đóng góp lâu dài vào phát triển kinh tế – xã hội.

Thứ sáu, thúc đẩy đối thoại và xây dựng cơ chế hòa giải xung đột xã hội. Một trong những điểm khác biệt giúp nhiều nước châu Âu hạn chế sự leo thang của biểu tình là khả năng thiết lập kênh đối thoại giữa chính quyền và các nhóm xã hội. Việt Nam, với hệ thống chính trị tập trung, có lợi thế trong việc điều phối, nhưng cũng phải đối diện với thách thức trong việc tạo dựng cơ chế đối thoại đủ linh hoạt và tin cậy. Các vụ việc căng thẳng ở một số địa phương cho thấy, nếu thiếu kênh đối thoại kịp thời, mâu thuẫn nhỏ có thể bị đẩy thành xung đột lớn, nó không chỉ nằm ở yếu tố an ninh, mà còn chỉ ra rằng việc lắng nghe và xử lý mâu thuẫn xã hội, đặc biệt trong cộng đồng dân tộc thiểu số, là điều tối quan trọng. Do vậy, cần xây dựng những cơ chế thể chế hóa đối thoại thường xuyên, có thể thông qua các hội đồng cộng đồng, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, hay các kênh trực tuyến, để người dân có thể tham gia vào quá trình ra quyết định và giải quyết bất đồng. Cơ chế hòa giải xung đột không chỉ giúp giải tỏa căng thẳng, mà còn là công cụ tăng cường tính chính danh của chính quyền.

Cuối cùng, xây dựng đường lối đối ngoại mang bản sắc riêng chủ động và trách nhiệm. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, các phong trào phản kháng hiếm khi chỉ dừng ở phạm vi nội bộ dễ trở thành hiệu ứng ảnh hưởng lan tỏa. Việt Nam, với vị trí địa chiến lược nhạy cảm, có thể trở thành tâm điểm quan sát hoặc bị tác động thông tin từ bên ngoài nếu xảy ra bất ổn. Thực tế cho thấy, mỗi sự kiện căng thẳng đều dễ bị khai thác, thậm chí xuyên tạc, nhằm phục vụ lợi ích riêng của các bên. Do đó, Việt Nam phải xây dựng một đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đặt lợi ích quốc gia và nhân dân làm trọng tâm, không chọn phe và luôn có trách nhiệm trước cộng đồng quốc tế. Đường lối này đòi hỏi chủ động chuẩn bị các kịch bản ứng phó khi khủng hoảng xảy ra: từ việc giải thích chính sách, bảo vệ hình ảnh quốc gia, đến phối hợp với các tổ chức đa phương nhằm hạn chế thông tin sai lệch. Ngoại giao cần được thực hiện một cách minh bạch, linh hoạt nhưng kiên định, bảo vệ lợi ích dân tộc mà không bị chi phối bởi áp lực bên ngoài. Khi được thực hiện nhất quán, chiến lược này không chỉ giúp Việt Nam chủ động ứng phó trước khủng hoảng, bảo vệ ổn định nội bộ, mà còn nâng cao uy tín, sức mạnh và vị thế quốc tế, đồng thời khẳng định vai trò của một quốc gia tự chủ, trách nhiệm và độc lập trong thời đại toàn cầu hóa thông tin.

Nhìn từ toàn cảnh, các bài học từ những biến động trong khu vực và quốc tế, kết hợp với thực tiễn trong nước, cho thấy rằng ổn định xã hội của Việt Nam không phải là trạng thái bất biến mà là kết quả của một quá trình quản trị liên tục. Những nguy cơ từ bất công xã hội, tham nhũng, thông tin sai lệch, thiếu cơ chế đối thoại, hay tác động từ can thiệp quốc tế đều có thể trở thành mầm mống bất ổn nếu không được xử lý kịp thời. Do đó, các kiến nghị không chỉ dừng ở biện pháp ngắn hạn, mà phải được đặt trong chiến lược lâu dài, phát triển bao trùm, quản trị minh bạch, thông tin minh bạch, đối thoại xã hội, và ngoại giao chủ động.

Kết luận

Nhìn từ góc độ toàn cầu, các cuộc biểu tình, đình công và bạo loạn gần đây phản ánh một xu hướng gia tăng của sự bất ổn xã hội trong bối cảnh kinh tế – chính trị phức tạp và toàn cầu hóa thông tin. Các phong trào xã hội hiện nay ngày càng đa tầng, kết hợp các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội và công nghệ, đồng thời sử dụng các phương thức tổ chức và truyền thông tinh vi, cho phép lan tỏa nhanh chóng và tạo áp lực trực tiếp lên các cơ quan quyền lực. Từ góc nhìn học thuật, có thể giả thuyết rằng khi các điều kiện bất bình đẳng xã hội và thiếu minh bạch trong quản trị kéo dài, nguy cơ bùng phát phản kháng sẽ gia tăng theo cấp số nhân, đồng thời mức độ tổn thương của hệ thống chính trị và kinh tế cũng sẽ cao hơn. Trong tương lai, các quốc gia nếu không xây dựng cơ chế phòng ngừa, phản ứng linh hoạt và gắn kết giữa chính quyền với nhân dân sẽ đối mặt với rủi ro gia tăng bất ổn chính trị – xã hội, tác động trực tiếp đến ổn định kinh tế và vị thế quốc tế.

Với Việt Nam, bài học từ bối cảnh toàn cầu nhấn mạnh tầm quan trọng của chính sách công minh bạch, củng cố an sinh xã hội, nâng cao năng lực quản trị cơ sở, đồng thời chủ động dự báo và chuẩn bị các kịch bản ứng phó. Chỉ khi các yếu tố này được tích hợp, đất nước mới có thể vừa bảo vệ lợi ích quốc gia, vừa duy trì sự ổn định, linh hoạt và bền vững trong một thế giới đầy biến động./.

Hết

Tác giả: Trương Quốc Lượng

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của Nghiên cứu Chiến lược. Mọi trao đổi học thuật và các vấn đề khác, quý độc giả có thể liên hệ với ban biên tập qua địa chỉ mail: [email protected]

[1] Đài Tiếng nói Việt Nam. (2025). 2 tháng vận hành chính quyền 2 cấp: Nhận diện thách thức để có giải pháp lâu bền. https://vov.vn/chinh-tri/2-thang-van-hanh-chinh-quyen-2-cap-nhan-dien-thach-thuc-de-co-giai-phap-lau-ben-post1227980.vov

[2] Báo Quân đội Nhân dân. (2018). “Bình tĩnh, tỉnh táo, tránh bị lôi kéo, kích động dẫn đến vi phạm pháp luật”.  https://www.qdnd.vn/xa-hoi/cac-van-de/binh-tinh-tinh-tao-tranh-bi-loi-keo-kich-dong-dan-den-vi-pham-phap-luat-541135

ShareTweetShare
Bài trước

Tổng quan về tình hình biểu tình, bạo loạn trên thế giới hiện nay và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam – Phần 2

  • Thịnh Hành
  • Bình Luận
  • Latest
Cuba đương đầu với những thách thức chính trị trong nước

Cuba đương đầu với những thách thức chính trị trong nước

22/06/2025
Tin đồn về sự lung lay quyền lực của Tập Cận Bình: Hiện thực hay chỉ là biểu hiện của chiến tranh nhận thức?

Tin đồn về sự lung lay quyền lực của Tập Cận Bình: Hiện thực hay chỉ là biểu hiện của chiến tranh nhận thức?

04/06/2025
Tình hình xung đột tại Myanmar sau 3 năm: Diễn biến, tác động và dự báo

Tình hình xung đột tại Myanmar sau 3 năm: Diễn biến, tác động và dự báo

30/01/2024
Châu Á – “thùng thuốc súng” của Chiến tranh thế giới thứ ba

Châu Á – “thùng thuốc súng” của Chiến tranh thế giới thứ ba

18/09/2024
Xung đột quân sự Thái Lan – Campuchia: Cuộc chiến không có người chiến thắng

Xung đột quân sự Thái Lan – Campuchia: Cuộc chiến không có người chiến thắng

27/07/2025
Tình hình Biển Đông từ đầu năm 2024 đến nay và những điều cần lưu ý

Tình hình Biển Đông từ đầu năm 2024 đến nay và những điều cần lưu ý

06/05/2024
Làn sóng biểu tình ở Indonesia: thực trạng, dự báo và vấn đề đặt ra đối với Việt Nam

Làn sóng biểu tình ở Indonesia: thực trạng, dự báo và vấn đề đặt ra đối với Việt Nam

01/09/2025
Dấu hiệu cách mạng màu trong khủng hoảng chính trị ở Bangladesh?

Dấu hiệu cách mạng màu trong khủng hoảng chính trị ở Bangladesh?

07/08/2024
Triển vọng phát triển tuyến đường thương mại biển Á – Âu qua Bắc Băng Dương

Triển vọng phát triển tuyến đường thương mại biển Á – Âu qua Bắc Băng Dương

2
Khả năng phát triển của các tổ chức an ninh tư nhân Trung Quốc trong những năm tới

Khả năng phát triển của các tổ chức an ninh tư nhân Trung Quốc trong những năm tới

2
4,5 giờ đàm phán cấp cao Mỹ – Nga: cuộc chiến tại Ukraine liệu có cơ hội kết thúc?

Những điều đáng chú ý trong cuộc đàm phán Ngoại trưởng Nga – Mỹ tại Saudi Arabia

2
Tin đồn về sự lung lay quyền lực của Tập Cận Bình: Hiện thực hay chỉ là biểu hiện của chiến tranh nhận thức?

Tin đồn về sự lung lay quyền lực của Tập Cận Bình: Hiện thực hay chỉ là biểu hiện của chiến tranh nhận thức?

2
Liệu đã đến thời điểm nghĩ tới đàm phán hòa bình với Nga và các điều khoản sẽ thế nào?

Liệu đã đến thời điểm nghĩ tới đàm phán hòa bình với Nga và các điều khoản sẽ thế nào?

1
Quan hệ Nga-Trung-Triều phát triển nhanh chóng và hệ lụy đối với chiến lược của phương Tây

Quan hệ Nga-Trung-Triều phát triển nhanh chóng và hệ lụy đối với chiến lược của phương Tây

1
Campuchia triển khai Chiến lược Ngũ giác và những hàm ý đối với Việt Nam

Campuchia triển khai Chiến lược Ngũ giác và những hàm ý đối với Việt Nam

1
Nhìn nhận về quan hệ Nga – Triều hiện nay: Vị thế của một tiểu cường sở hữu vũ khí hạt nhân

Nhìn nhận về quan hệ Nga – Triều hiện nay: Vị thế của một tiểu cường sở hữu vũ khí hạt nhân

1
Tổng quan về tình hình biểu tình, bạo loạn trên thế giới hiện nay và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam – Phần 1

Tổng quan về tình hình biểu tình, bạo loạn trên thế giới hiện nay và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam – Phần cuối

06/11/2025
Tổng quan về tình hình biểu tình, bạo loạn trên thế giới hiện nay và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam – Phần 1

Tổng quan về tình hình biểu tình, bạo loạn trên thế giới hiện nay và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam – Phần 2

05/11/2025
Tổng quan về tình hình biểu tình, bạo loạn trên thế giới hiện nay và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam – Phần 1

Tổng quan về tình hình biểu tình, bạo loạn trên thế giới hiện nay và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam – Phần 1

04/11/2025
Nhận định về cuộc gặp gỡ Donald Trump – Tập Cận Bình bên lề Hội nghị APEC 2025

Nhận định về cuộc gặp gỡ Donald Trump – Tập Cận Bình bên lề Hội nghị APEC 2025

01/11/2025
Năng lực phòng thủ phi đối xứng của Venezuela trước kịch bản xung đột quân sự với Mỹ

Năng lực phòng thủ phi đối xứng của Venezuela trước kịch bản xung đột quân sự với Mỹ

31/10/2025
Hợp tác trí tuệ nhân tạo ASEAN – Trung Quốc và một số vấn đề đặt ra cho Việt Nam

Hợp tác trí tuệ nhân tạo ASEAN – Trung Quốc và một số vấn đề đặt ra cho Việt Nam

31/10/2025
Từ Syria đến Gaza: Chiến lược “ủy nhiệm” của Israel trở lại

Từ Syria đến Gaza: Chiến lược “ủy nhiệm” của Israel trở lại

28/10/2025
Chuyển đổi năng lượng lần thứ tư: Tính tất yếu và những thách thức trong bối cảnh toàn cầu

Chuyển đổi năng lượng lần thứ tư: Tính tất yếu và những thách thức trong bối cảnh toàn cầu

27/10/2025

Tin Mới

Tổng quan về tình hình biểu tình, bạo loạn trên thế giới hiện nay và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam – Phần 1

Tổng quan về tình hình biểu tình, bạo loạn trên thế giới hiện nay và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam – Phần cuối

06/11/2025
8
Tổng quan về tình hình biểu tình, bạo loạn trên thế giới hiện nay và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam – Phần 1

Tổng quan về tình hình biểu tình, bạo loạn trên thế giới hiện nay và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam – Phần 2

05/11/2025
117
Tổng quan về tình hình biểu tình, bạo loạn trên thế giới hiện nay và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam – Phần 1

Tổng quan về tình hình biểu tình, bạo loạn trên thế giới hiện nay và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam – Phần 1

04/11/2025
183
Nhận định về cuộc gặp gỡ Donald Trump – Tập Cận Bình bên lề Hội nghị APEC 2025

Nhận định về cuộc gặp gỡ Donald Trump – Tập Cận Bình bên lề Hội nghị APEC 2025

01/11/2025
310

Cộng đồng nghiên cứu chiến lược và các vấn đề quốc tế.

Liên hệ

Email: [email protected]; [email protected]

Danh mục tin tức

  • Bầu cử tổng thống mỹ
  • Châu Á
  • Châu Âu
  • Châu Đại Dương
  • Châu Mỹ
  • Châu Phi
  • Chính trị
  • Chuyên gia
  • Khu vực
  • Kinh tế
  • Lĩnh vực
  • Media
  • Phân tích
  • Quốc phòng – an ninh
  • Sách
  • Sự kiện
  • Sự kiện
  • Thông báo
  • Thư viện
  • TIÊU ĐIỂM – ĐẠI HỘI ĐẢNG XX TQ
  • Xã hội
  • Ý kiến độc giả
No Result
View All Result
  • Trang Chủ
  • Lĩnh vực
    • Kinh tế
    • Xã hội
    • Quốc phòng – an ninh
    • Chính trị
  • Khu vực
    • Châu Á
    • Châu Âu
    • Châu Mỹ
    • Châu Phi
    • Châu Đại Dương
  • Phân tích
    • Ý kiến độc giả
    • Chuyên gia
  • Thư viện
    • Sách
    • Tạp chí
    • Media
  • Podcasts
  • Giới thiệu
    • Ban Biên tập
    • Dịch giả
    • Đăng ký cộng tác
    • Thông báo

© 2022 Bản quyền thuộc về nghiencuuchienluoc.org.