Nghiên Cứu Chiến Lược
  • Trang Chủ
  • Lĩnh vực
    • Kinh tế
    • Xã hội
    • Quốc phòng – an ninh
    • Chính trị
  • Khu vực
    • Châu Á
    • Châu Âu
    • Châu Mỹ
    • Châu Phi
    • Châu Đại Dương
  • Phân tích
    • Ý kiến độc giả
    • Chuyên gia
  • Thư viện
    • Sách
    • Tạp chí
    • Media
  • Podcasts
  • Giới thiệu
    • Ban Biên tập
    • Dịch giả
    • Đăng ký cộng tác
    • Thông báo
No Result
View All Result
  • Trang Chủ
  • Lĩnh vực
    • Kinh tế
    • Xã hội
    • Quốc phòng – an ninh
    • Chính trị
  • Khu vực
    • Châu Á
    • Châu Âu
    • Châu Mỹ
    • Châu Phi
    • Châu Đại Dương
  • Phân tích
    • Ý kiến độc giả
    • Chuyên gia
  • Thư viện
    • Sách
    • Tạp chí
    • Media
  • Podcasts
  • Giới thiệu
    • Ban Biên tập
    • Dịch giả
    • Đăng ký cộng tác
    • Thông báo
No Result
View All Result
Nghiên Cứu Chiến Lược
No Result
View All Result
Home Lĩnh vực

Điều chỉnh chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc trong bối cảnh thích ứng với những điều chỉnh chính sách Đông Nam Á của Trump 2.0

23/12/2025
in Lĩnh vực, Phân tích
A A
0
Điều chỉnh chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc trong bối cảnh thích ứng với những điều chỉnh chính sách Đông Nam Á của Trump 2.0
0
SHARES
10
VIEWS
Share on FacebookShare on Twitter
Việc Trung Quốc điều chỉnh chính sách Đông Nam Á trong giai đoạn hiện nay không chỉ là phản ứng ngắn hạn trước sự trở lại của “chủ nghĩa Trump” trong chính sách đối ngoại Mỹ, mà còn là kết quả của sự tái cấu trúc quyền lực mang tính hệ thống trong khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương. Khi Washington chuyển hướng chiến lược từ hợp tác thể chế sang cạnh tranh thực dụng, lấy thương mại, chuỗi cung ứng và an ninh làm công cụ chính, Bắc Kinh buộc phải định hình lại cách tiếp cận Đông Nam Á nhằm duy trì không gian ảnh hưởng và ngăn chặn xu hướng phi Trung Quốc trong chuỗi cung ứng khu vực. Điều này khiến chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc trở nên đa tầng hơn vừa mang tính phản ứng trước sức ép từ Mỹ, vừa thể hiện chủ động chiến lược trong việc tái khẳng định vai trò trung tâm của mình với ASEAN...

Tổng quan về tình hình khu vực

Sự trở lại của Donald Trump nhiệm kỳ 2 cùng học thuyết “America First” đánh dấu một bước ngoặt trong tư duy chiến lược của Hoa Kỳ đối với khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương, đặc biệt là Đông Nam Á. Từ năm 2025, Washington thể hiện rõ xu hướng chuyển từ hợp tác sang cạnh tranh, trong đó lợi ích kinh tế, cân bằng thương mại và an ninh chuỗi cung ứng được đặt lên hàng đầu. Chính quyền Trump không tìm cách dẫn dắt trật tự khu vực thông qua cơ chế đa phương như thời Obama hay Biden mà hướng đến việc sử dụng công cụ kinh tế và an ninh để củng cố vị thế Mỹ trong trật tự khu vực đang dịch chuyển. Cách tiếp cận này đã làm thay đổi đáng kể môi trường chiến lược Đông Nam Á, buộc các quốc gia trong khu vực phải điều chỉnh chiến lược “đi dây” và đồng thời thúc đẩy Trung Quốc tái định vị vai trò của mình nhằm đối ứng trước các thách thức mới.

Chính sách Đông Nam Á mới của Trump thể hiện quá trình khôi phục trọng tâm lợi ích quốc gia trong hoạch định chiến lược toàn cầu của Mỹ. Thay vì coi khu vực là đối tác trong mô hình lãnh đạo toàn cầu, Washington xem Đông Nam Á như một mắt xích trong chiến lược phục hồi vị thế kinh tế – công nghiệp của Mỹ. Các biện pháp như tăng thuế nhập khẩu, siết chuỗi cung ứng và kêu gọi doanh nghiệp Mỹ rút khỏi Trung Quốc đã làm dịch chuyển dòng vốn đầu tư, trong đó Việt Nam, Malaysia và Indonesia nổi lên như những điểm đến thay thế. Tuy nhiên, điều này cũng tạo ra hai hướng bất ổn, một mặt, ASEAN hưởng lợi từ làn sóng dịch chuyển sản xuất; mặt khác, khu vực phải đối mặt với áp lực cạnh tranh mới và nguy cơ bị lôi kéo vào xung đột kinh tế giữa Mỹ và Trung Quốc.

Theo dữ liệu và các báo cáo liên quan, năm 2023 – 2024 dòng vốn FDI vào ASEAN đạt khoảng 230 tỷ USD[1], trong đó vốn từ Trung Quốc khoảng 17,7 tỷ USD[2], Thương mại ASEAN – Trung Quốc đạt  700 tỷ USD vào năm 2023[3] . Đồng thời, xuất khẩu hàng hóa của Mỹ tới ASEAN năm 2024 tăng khoảng 15,3% lên 123,5 tỷ USD[4], tổng thương mại hàng hóa và dịch vụ giữa Mỹ và ASEAN được ghi nhận là khoảng 553USD tỷ hàng năm[5]. Những con số này cho thấy xu thế cạnh tranh ảnh hưởng giữa hai siêu cường ở khu vực.”

Riêng lĩnh vực an ninh, Washington vẫn duy trì hiện diện quân sự mạnh mẽ đặc biệt tại Philippines và Singapore nhưng vẫn theo mô hình kiểu cam kết có điều kiện. Thay vì bảo đảm an ninh khu vực như một hàng hóa công, Mỹ yêu cầu các đối tác chia sẻ gánh nặng tài chính và thể hiện rõ lập trường chính trị trong các vấn đề nhạy cảm. Cách tiếp cận này giúp củng cố sự răn đe đối với Trung Quốc nhưng lại làm suy yếu niềm tin chiến lược của nhiều quốc gia ASEAN. Các nước như Việt Nam và Indonesia, vốn theo đuổi chính sách đối ngoại cân bằng, ngày càng thận trọng hơn trong việc dựa vào Washington. Trong khi đó, các quốc gia lục địa như Lào, Campuchia hay Myanmar lại ngả sâu hơn về Bắc Kinh, làm nổi bật đường phân cực trong nội khối ASEAN.

Trong bối cảnh đó, Trung Quốc nhìn thấy cả thách thức lẫn cơ hội. Thách thức nằm ở việc Mỹ gia tăng sức ép thông qua các sáng kiến như IPEF hay FOIP 2.0, hướng tới giảm phụ thuộc vào Trung Quốc. Tuy nhiên, sự thiếu nhất quán và tính chu kỳ trong chính sách Mỹ lại mở ra cơ hội cho Bắc Kinh khai thác khoảng trống niềm tin trong khu vực. Từ cuối năm 2024, Trung Quốc đã đẩy mạnh chính ngoại giao láng giềng mở rộng, kết hợp công cụ kinh tế, ngoại giao và an ninh mềm để tái khẳng định vị thế đối tác thiết yếu của ASEAN. Các sáng kiến như RCEP, BRI và Hiệp định Khu thương mại tự do ASEAN – Trung Quốc 3.0 trở thành nền tảng để Bắc Kinh vừa củng cố chuỗi cung ứng khu vực, vừa định hình lại cấu trúc thương mại theo hướng tăng cường liên kết bên trong khu vực.

Đặc biệt, khi Mỹ tập trung vào cạnh tranh công nghệ và bảo hộ thị trường, Trung Quốc lại tăng tốc triển khai “Con đường Tơ lụa kỹ thuật số” và đầu tư vào năng lượng xanh, logistics, cùng hạ tầng số ở Đông Nam Á. Điều này cho phép Bắc Kinh duy trì vai trò trung tâm trong các chuỗi giá trị mới nổi, đồng thời tạo dựng hình ảnh một cường quốc có trách nhiệm đối trọng với hình ảnh “nước Mỹ thực dụng” dưới thời Trump. Ở cấp độ an ninh, Bắc Kinh áp dụng ngoại giao ngăn khủng hoảng, giữ căng thẳng Biển Đông trong tầm kiểm soát, nhưng vẫn duy trì hoạt động tuần tra và xây dựng quân sự có chọn lọc để khẳng định lợi ích cốt lõi.

Đông Nam Á bước vào năm 2025 như một không gian chiến lược hai tầng, nơi Mỹ tập trung vào tái cấu trúc quyền lực vật chất, còn Trung Quốc nỗ lực định hình quyền lực nhận thức và thể chế. Trật tự khu vực đang dịch chuyển từ mô hình lãnh đạo đơn cực sang điều phối cạnh tranh đa trung tâm, trong đó ASEAN vừa là đối tượng chịu tác động, vừa là tác nhân định hình cán cân mới.

Chính sách Đông Nam Á của Mỹ dưới thời Trump

Chính sách định vị Đông Nam Á của Mỹ dưới thời Donald Trump đánh dấu sự chuyển hướng từ hợp tác thể chế sang chủ nghĩa thực dụng chiến lược, trong đó khu vực này được đặt tại trung tâm của tầm nhìn “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở – Free and Open Indo – Pacific (FOIP)”. Về bản chất, khái niệm này là sự mở rộng của chiến lược xoay trục châu Á thời Obama, nhưng được Trump điều chỉnh với ưu tiên cân bằng quyền lực cứng rắn hơn với Trung Quốc.

FOIP vừa là khung khái niệm địa chiến lược, vừa thể hiện cách Mỹ tái định hình cấu trúc quyền lực khu vực, trong đó Đông Nam Á giữ vai trò bản lề kết nối hai đại dương và vành đai chiến lược kiềm chế ảnh hưởng Bắc Kinh.

Trọng tâm của FOIP là phục hồi ưu thế chiến lược của Mỹ thông qua kết hợp quyền lực cứng và mềm, đặc biệt trong thương mại, an ninh và chuỗi cung ứng. Thay vì thúc đẩy hội nhập thể chế qua “Trans-Pacific Partnership – Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP)”. Washington áp dụng mô hình hợp tác song phương chọn lọc, nhằm tối đa hóa lợi ích trực tiếp và giảm ràng buộc chính trị. Quyết định rút khỏi TPP thể hiện rõ tư duy America First[6]. Song song, Mỹ triển khai các biện pháp thương mại đối kháng, siết chuỗi cung ứng công nghệ và khuyến khích dịch chuyển sản xuất khỏi Trung Quốc sang Việt Nam, Indonesia hay Thái Lan vừa phục vụ mục tiêu nội địa, vừa định hình thế cạnh tranh dài hạn.

Điểm đặc trưng của FOIP dưới thời Trump là sự chuyển dịch từ Ngoại giao giá trị* sang Ngoại giao lợi ích*. Nếu các chính quyền tiền nhiệm coi Đông Nam Á là đối tác phát triển, Trump nhìn khu vực này như không gian cạnh tranh, nơi Mỹ phải bảo vệ lợi ích kinh tế và chiến lược bằng công cụ trực tiếp. Cách tiếp cận này giúp chính sách linh hoạt hơn nhưng thiếu tính nhất quán dài hạn. Đông Nam Á vừa là đối tượng lôi kéo để cân bằng Trung Quốc, vừa là điểm tựa chiến lược cho hiện diện Mỹ ở Tây Thái Bình Dương.

Cụ thể,  sự điều chỉnh trong tư duy chiến lược của Washington, phản ánh ba trục chính:

Thứ nhất, ưu tiên lợi ích ngắn hạn thể hiện rõ trong chính sách thương mại và chuỗi cung ứng. Thay vì duy trì các hiệp định đa phương như TPP, Mỹ tập trung vào thuế quan, hạn chế xuất khẩu và các biện pháp cưỡng chế nhằm bảo vệ ngành công nghiệp trong nước. Điều này dẫn tới hai hệ quả trực tiếp là, Mỹ tăng cường điều tra gian lận xuất xứ, đặc biệt đối với hàng hóa đi qua Việt Nam, Malaysia hay Thái Lan trước khi vào thị trường Mỹ; hơn nữa là, các biện pháp áp thuế cao đối với sản phẩm năng lượng tái tạo từ ASEAN khiến chuỗi cung ứng khu vực buộc phải tái cấu trúc gấp. Những hành động này thúc đẩy dòng đầu tư rời Trung Quốc.

Thứ hai, Washington ra tăng củng cố quan hệ song phương với các đối tác trọng yếu như Philippines, Singapore thông qua các thỏa thuận chia sẻ thông tin, bán vũ khí, và mở rộng tập trận chung như Balikatan hay Cobra Gold và có cả Việt Nam trong một vài phương diện. Cách tiếp cận này phản ánh chủ trương đo lường được cam kết ưu tiên những quan hệ mang lại hiệu quả tức thời hơn là củng cố các thể chế đa phương như ASEAN. Bên cạnh đó, Mỹ tăng cường sự hiện diện quân sự của mình nhiều hơn tại các khu vực nóng như Biển Đông, Hoa Đông hoặc Đài Loan, rõ nét hơn hẳn so với thời Tổng thống Joe Biden.

Thứ ba, Mỹ sử dụng đòn áp lực thương mại – công nghệ nhằm giới hạn ảnh hưởng của Trung Quốc. Các biện pháp kiểm soát xuất khẩu công nghệ cao, hạn chế doanh nghiệp Trung Quốc, hay điều tra hành vi chuyển tải hàng hóa đều nhằm ngăn Bắc Kinh tận dụng chuỗi cung ứng ASEAN để né trừng phạt. Song chính điều đó biến Đông Nam Á thành không gian trung gian chiến lược vừa hưởng lợi từ dòng đầu tư dịch chuyển, vừa đối mặt nguy cơ bị lôi vào cạnh tranh siêu cường.

So với các khu vực khác, Đông Nam Á chịu tác động mạnh hơn vì thiếu nền tảng thể chế an ninh vững chắc như NATO ở châu Âu hay các hiệp ước song phương cố định ở Đông Bắc Á. Sự bán thể chế của ASEAN khiến khu vực dễ tổn thương trước những thay đổi đột ngột từ Washington. Trong khi Mỹ kỳ vọng ngăn Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng, các nước ASEAN lại buộc phải duy trì quan hệ kinh tế với Bắc Kinh nhưng vẫn tận dụng an ninh và công nghệ từ Mỹ.

Chính sách Đông Nam Á của Trump mang lại hiệu ứng hai mặt, tăng cường năng lực răn đe và thu hút đầu tư ngắn hạn, nhưng đồng thời làm gia tăng bất ổn chiến lược và suy yếu liên kết khu vực. Chính sự lệch pha giữa lợi ích ngắn hạn và cam kết thể chế dài hạn khiến chính sách này vừa là công cụ kiềm chế Trung Quốc, vừa là phép thử cho khả năng duy trì ảnh hưởng bền vững của Mỹ tại Đông Nam Á.

.Chính sách này tạo ra những hệ quả sâu rộng đối với cấu trúc chiến lược của khu vực. Thay vì củng cố lòng tin và vai trò trung tâm của ASEAN như các chính quyền tiền nhiệm, chính sách mang tính thực dụng và ngắn hạn của Trump đã khiến Đông Nam Á rơi vào trạng thái bất định chiến lược, nơi các quốc gia chia nhau lựa chọn giữa hai cực quyền lực Mỹ và Trung Quốc. Chính sự thiếu cam kết thể chế và tầm nhìn dài hạn của Mỹ đã vô hình trung mở ra khoảng trống cho Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng thông qua ngoại giao kinh tế, sáng kiến kết nối và các công cụ quyền lực mềm ngày càng tinh vi.

Một trong những tác động rõ rệt nhất của chính sách Đông Nam Á thời Trump là sự xói mòn lòng tin chiến lược của các quốc gia ASEAN đối với vai trò của Mỹ như một người bảo đảm trật tự khu vực. Theo khảo sát The State of Southeast Asia 2024 do ISEAS Yusof Ishak Institute công bố, khu vực ASEAN tin rằng Mỹ sẽ hành động có trách nhiệm vì lợi ích toàn cầu giảm từ 54.2% năm 2023 xuống còn 42.4% vào năm 2024, ngược lại chỉ số không tin tưởng đã tăng lên đáng kể, phản ánh xu hướng suy giảm niềm tin đáng kể so với giai đoạn 2017[7]. Nguyên nhân chính nằm ở cách tiếp cận mang tính giao dịch của chính quyền Trump, thay vì cam kết lâu dài với cấu trúc thể chế như ASEAN hoặc EAS, Washington chuyển trọng tâm sang quan hệ song phương và lợi ích ngắn hạn, khiến các nước trong khu vực lo ngại rằng Mỹ có thể rút lui bất cứ lúc nào nếu lợi ích trực tiếp không còn.

Việc Washington rút khỏi các cơ chế thương mại đa phương, đặc biệt là TPP vốn được thiết kế như một đối trọng thể chế với Trung Quốc đã khiến khu vực mất đi một khung hợp tác kinh tế có tính gắn kết và bền vững.

Sự bất định chiến lược này càng trở nên rõ ràng hơn khi Mỹ gia tăng sức ép công nghệ và thương mại lên Trung Quốc, kéo theo tác động lan tỏa đến toàn bộ chuỗi cung ứng Đông Nam Á. Các biện pháp kiểm soát xuất khẩu chip bán dẫn, hạn chế linh kiện công nghệ cao và cấm vận đối với các công ty Trung Quốc như Huawei và ZTE buộc nhiều nước ASEAN phải cân nhắc kỹ lưỡng giữa lợi ích kinh tế và rủi ro chính trị. Bởi chuỗi cung ứng công nghệ cao của ASEAN có liên kết trực tiếp hoặc gián tiếp nhiều với các doanh nghiệp Trung Quốc, điều này khiến việc chọn bên trở thành một lựa chọn đầy rủi ro. Khi Washington rút lui khỏi các sáng kiến đa phương và cắt giảm viện trợ phát triển, Bắc Kinh nhanh chóng lấp đầy khoảng trống này bằng việc mở rộng sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI). Ở cấp thể chế, chính sách của Donald Trump làm suy yếu vai trò trung tâm của ASEAN. Nếu như trước đây, sáng kiến “ASEAN Outlook on the Indo-Pacific – Tầm nhìn của ASEAN về Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương (AOIP)” nhấn mạnh tính bao trùm, đối thoại và hợp tác cùng có lợi, thì FOIP do Mỹ khởi xướng lại thể hiện cách tiếp cận có tính chọn lọc và định hướng cạnh tranh, hàm ý loại trừ hoặc kiềm chế một số chủ thể nhất định, đặc biệt là Trung Quốc. Hệ quả là ASEAN dường như không còn được coi là nền tảng trung tâm trong cấu trúc khu vực mà trở thành không gian cạnh tranh ảnh hưởng.

Chính sách Đông Nam Á thời Trump, tập trung vào lợi ích ngắn hạn và cạnh tranh song phương, đã làm suy yếu vai trò chiến lược của Mỹ và thúc đẩy sự trỗi dậy hệ thống của Trung Quốc trong khu vực. ASEAN giờ đây buộc phải cân bằng giữa hai cực quyền lực, trong bối cảnh cấu trúc khu vực ngày càng phân cực và bất định.

Sự điều chỉnh chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc

Giai đoạn sau khi chính quyền Donald Trump đưa ra chính sách “Ấn Độ – Thái Bình Dương tự do và rộng mở” (FOIP) cho thấy sự thay đổi có tính chiến lược và chủ động trong tư duy đối ngoại của Bắc Kinh. Từ chỗ xem Đông Nam Á là vành đai láng giềng hữu nghị mang tính ổn định, Trung Quốc đã nâng tầm khu vực này thành đối tác thiết yếu trong tổng thể chiến lược đại ngoại giao của Chủ tịch Tập Cận Bình. Đây không chỉ là sự điều chỉnh mang tính phản ứng trước sức ép của Mỹ, mà còn là bước đi nhằm tái định hình môi trường xung quanh Trung Quốc theo hướng thuận lợi hơn cho mục tiêu phục hưng quốc gia “Giấc mộng Trung Hoa”.

Khái niệm “ngoại giao láng giềng mở rộng” được Tập Cận Bình chính thức đề cập từ Hội nghị công tác đối ngoại khu vực năm 2013[8], nhưng chỉ đến sau năm 2017 mới được đẩy mạnh triển khai trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược Mỹ – Trung bước vào giai đoạn đối kháng toàn diện. Đông Nam Á, trong cách nhìn của Bắc Kinh, không chỉ là vùng đệm chiến lược, mà còn là vành đai để thử nghiệm cho mô hình quan hệ nước lớn kiểu mới, nơi Trung Quốc có thể thể hiện vai trò của một cường quốc ổn định, đáng tin và có trách nhiệm, nhằm tương phản với sự thất thường trong chính sách của Mỹ dưới thời Trump.

Trung Quốc đã xây dựng chính sách Đông Nam Á trên ba tầng trụ chính là kinh tế, an ninh và văn hóa tạo nên cấu trúc ngoại giao tầng ba nhằm kết hợp sức mạnh cứng và mềm trong khu vực.

Về phần kinh tế

Trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược Mỹ – Trung ngày càng gay gắt, Trung Quốc đã tiến hành điều chỉnh sâu sắc cấu phần kinh tế trong chính sách Đông Nam Á, lấy kết nối thay thế làm trụ cột để đối phó với những nỗ lực tái định hình chuỗi cung ứng và thương mại của Mỹ. Trọng tâm của điều chỉnh này là củng cố khuôn khổ thể chế kinh tế khu vực, mở rộng kết nối hạ tầng số và tái cấu trúc chuỗi sản xuất công nghiệp theo hướng phù hợp với chuẩn mực ASEAN nhằm duy trì vai trò trung tâm trong mạng lưới sản xuất khu vực.

Trong đó, việc đàm phán và thúc đẩy Hiệp định Khu thương mại tự do ASEAN – Trung Quốc (CAFTA 3.0) cho thấy Bắc Kinh đang mở rộng không gian hợp tác kinh tế truyền thống sang các lĩnh vực mới như kinh tế số, logistics và năng lượng sạch[9]. Theo số liệu sơ bộ của ASEAN và Trung Quốc, năm 2023 thương mại hàng hóa hai chiều giữa ASEAN và Trung Quốc đạt khoảng 696,7 tỷ USD[10], đánh dấu việc ASEAN tiếp tục là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc. Đồng thời, theo phân tích riêng, thương mại Trung Quốc – ASEAN năm 2023 có thể đạt khoảng  468,8 tỷ USD, chiếm khoảng 15,9 % tổng ngoại thương của Trung Quốc[11]. Thứ Trưởng Thương mại Nghiêm Đông cho biết “Trung Quốc đã giữ vị trí là đối tác thương mại lớn nhất của ASEAN trong 16 năm liên tiếp”[12].

12

Biểu đồ thể hiện sự tăng trưởng tỷ trọng trong tổng giá trị thương mại của ASEAN với các đối tác lớn, trong đó có thể thấy được tỷ trọng với Trung Quốc tăng mạnh[13].

Phiên bản CAFTA 3.0 không chỉ tập trung vào giảm thuế hàng hóa truyền thống, mà còn giúp Trung Quốc từng bước chuẩn hóa ảnh hưởng kinh tế trong khu vực, đồng thời định vị mình như một nhà cung cấp thể chế kinh tế thay thế cho các sáng kiến của phương Tây.

Song song, Bắc Kinh đẩy mạnh triển khai Con đường Tơ lụa kỹ thuật số như một cấu phần quan trọng trong BRI. Trung Quốc đã đầu tư hàng chục tỷ USD vào các dự án hạ tầng số tại Đông Nam Á, bao gồm mạng 5G, trung tâm dữ liệu và nền tảng thanh toán điện tử. Các tập đoàn công nghệ Trung Quốc như Huawei, ZTE và Alibaba Cloud đã trở thành đối tác then chốt của các quốc gia như Thái Lan, Malaysia và Indonesia trong việc triển khai các mạng lưới số quốc gia. Mục tiêu chiến lược là tạo ra hệ sinh thái số song song với các tiêu chuẩn và công nghệ do Mỹ dẫn dắt, đặc biệt là đối trọng hoặc ít nhất là giảm phụ thuộc với sáng kiến “Digital Connectivity Partnership” mà Washington khởi xướng từ năm 2020.

Trong khi Mỹ nhấn mạnh nguyên tắc minh bạch và bảo mật, Trung Quốc lại tập trung vào hiệu quả và chi phí thấp, khiến nhiều nước ASEAN vốn cần đầu tư hạ tầng nhanh chóng lựa chọn phương án Trung Quốc như một giải pháp thực dụng hơn.

Bên cạnh đó, chính sách kết nối thay thế là xu hướng tái định hình chuỗi cung ứng công nghiệp của Trung Quốc. Sau khi Mỹ gia tăng áp lực thuế quan và hạn chế công nghệ đối với các doanh nghiệp Trung Quốc, Bắc Kinh chủ động thúc đẩy dịch chuyển một phần sản xuất sang các nước ASEAN như Việt Nam, Indonesia và Malaysia. Đầu tư trực tiếp từ Trung Quốc vào ASEAN đang gia tăng, năm 2023 đạt khoảng USD 17 tỷ, tăng gần 20% so với năm trước[14]. Dữ liệu cũng cho thấy, hơn 40% đầu tư sản xuất mới từ Trung Quốc vào ASEAN trong năm 2022 chảy vào ngành điện tử và pin năng lượng. Dòng vốn này phản ánh xu thế dịch chuyển sản xuất từ Trung Quốc sang ASEAN trong bối cảnh căng thẳng thương mại và công nghệ với Mỹ.

Bên cạnh đó, Trung Quốc đã cung cấp khoảng 28 tỷ USD chiếm gần 40% hạ tầng tại Đông Nam Á và Trung Quốc cũng đã cam kết khoảng 85 tỷ USD cho hạ tầng trong cùng giai đoạn[15]. Các dự án như đường sắt cao tốc Jakarta – Bandung tại Indonesia, được xây dựng bằng công nghệ và thiết bị Trung Quốc. Tương tự, Malaysia với các dự án như East Coast Rail Link và khu công nghiệp liên kết với Trung Quốc, và Thái Lan với dự án đường sắt nối Thái Lan – Lào – Trung đang thể hiện sự tham gia ngày càng lớn của Trung Quốc trong lĩnh vực công nghệ, tài chính và hạ tầng. Mạng lưới này không chỉ củng cố ảnh hưởng kinh tế mà còn tạo ra mô hình liên kết mà phía nhận vốn có thể trở nên phụ thuộc về công nghệ nhập khẩu, các điều khoản tài chính và hạ tầng được định hình bởi các đối tác Trung Quốc

Điều này không chỉ giúp Trung Quốc giảm thiểu rủi ro từ các biện pháp kiểm soát chuỗi cung ứng của Mỹ, mà còn mở rộng không gian chiến lược kinh tế ở Đông Nam Á nơi Bắc Kinh vừa là nhà đầu tư, vừa là trung tâm điều phối sản xuất khu vực. Trong đó ASEAN trở thành cánh tay sản xuất mở rộng của nền kinh tế Trung Quốc trong bối cảnh bị siết chặt ở các thị trường phương Tây.

Về phần an ninh quốc phòng

Trong khi cấu phần kinh tế đóng vai trò tạo dựng ảnh hưởng dài hạn, cấu phần an ninh quốc phòng trong chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc lại thể hiện rõ tính toán chiến lược mang tính cân bằng và linh hoạt nhằm đối phó với sức ép quân sự và chính trị từ Mỹ, đồng thời duy trì môi trường khu vực thuận lợi cho lợi ích quốc gia của Bắc Kinh. Sự điều chỉnh này không chỉ phản ánh cách Trung Quốc tìm kiếm vị thế an ninh chủ động trong khu vực chuỗi đảo đầu tiên, mà còn là biểu hiện của nỗ lực kết hợp giữa sức mạnh cứng và quyền lực mềm để định hình trật tự an ninh khu vực theo cách của Trung Quốc.

Từ đầu thập niên 2020, Trung Quốc đã tăng cường phát triển khả năng chống tiếp cận và phong tỏa khu vực A2/AD, trong đó tên lửa như DF-21D và DF-26 được xem là trụ cột của kiến trúc này[16]. Song song, Trung Quốc cho ra mắt tàu sân bay Phúc Kiến (CV-18) loại tàu sân bay thế hệ thứ ba với công nghệ phóng điện từ EMALS đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc nâng cao năng lực tác chiến viễn dương và khẳng định ý chí hiện đại hóa hải quân. Mục tiêu của chiến lược này là tạo vùng đệm chiến lược nhằm hạn chế sự hiện diện của Mỹ và đồng minh trong chuỗi đảo đầu tiên, qua đó bảo vệ không gian sinh tồn chiến lược của Trung Quốc. Thay vì thể hiện sự đối đầu trực diện, Bắc Kinh kết hợp cách tiếp cận quân sự với ngoại giao phòng ngừa, sử dụng các cơ chế đối thoại khu vực để trình bày hình ảnh một Trung Quốc có trách nhiệm, sẵn sàng kiểm soát khủng hoảng.

Song hành với các hoạt động quân sự là việc mở rộng mạng lưới hợp tác an ninh đa tầng ở Đông Nam Á. Trung Quốc đã nâng cấp quan hệ quốc phòng song phương với Campuchia, Lào và Thái Lan, trong đó nổi bật là việc ký kết các biên bản ghi nhớ về đào tạo quân sự, chia sẻ thông tin tình báo và hỗ trợ hậu cần. Đáng chú ý, căn cứ hải quân Ream tại Campuchia đang được nâng cấp với sự hỗ trợ kỹ thuật của Trung Quốc, cho phép Bắc Kinh tiếp cận Biển Đông một cách linh hoạt hơn mà không cần sự hiện diện quân sự công khai[17].

Cách tiếp cận quy mô nhỏ này giúp Trung Quốc duy trì ảnh hưởng an ninh mà không cần xây dựng các liên minh ràng buộc như Mỹ, qua đó tránh được phản ứng tiêu cực từ các quốc gia ASEAN vốn nhạy cảm với vấn đề liên minh quân sự.

Trên bình diện khu vực, Bắc Kinh đang từng bước củng cố các cơ chế thể chế an ninh song song với Mỹ, nhằm định hình cấu trúc đối thoại an ninh mang dấu ấn Trung Quốc trong ASEAN. Từ năm 2022, Trung Quốc đã khởi động và duy trì Đối thoại không chính thức giữa Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc – ASEAN, qua đó thúc đẩy các trao đổi về an ninh khu vực, hợp tác quốc phòng và các vấn đề phi truyền thống như cứu trợ thảm họa, an ninh biển và y tế quân sự. Diễn đàn này phản ánh nỗ lực của Bắc Kinh trong việc thiết lập kênh tham vấn an ninh riêng biệt với ASEAN, song song và có phần đối trọng với các sáng kiến do Washington dẫn dắt như ADMM Plus hay các cơ chế tiểu đa phương trong khu vực như Squad hay Aukus.

Trung Quốc cũng chủ động vận dụng các khuôn khổ đa phương do mình khởi xướng hoặc giữ vai trò dẫn dắt như Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO), Diễn đàn Hương Sơn, Diễn đàn Bác Ngao cho châu Á và khối BRICS, nhằm thiết lập chuỗi liên kết chiến lược và mở rộng không gian tập hợp lực lượng trong khu vực và toàn cầu. Thông qua những diễn đàn này, Bắc Kinh không chỉ củng cố vai trò điều phối trong các vấn đề an ninh và phát triển, mà còn từng bước định hình một mạng lưới hợp tác lấy Trung Quốc làm trung tâm, song hành với các cơ chế do phương Tây dẫn dắt.

Bắc Kinh khéo léo sử dụng các diễn đàn này để định hình nhận thức rằng ổn định khu vực không thể đạt được nếu thiếu Trung Quốc. Điều này giúp Trung Quốc tạo dựng hình ảnh đối tác hợp tác và thực sự đáng tin cậy trong khi Mỹ bị nhiều nước ASEAN đánh giá là khó đoán định về chính sách khu vực.

Trong Sách trắng Quốc phòng Trung Quốc 2025, Bắc Kinh đã nâng tầm quyền và lợi ích hàng hải thành một trụ cột chiến lược, đặc biệt nhấn mạnh tới môi trường an ninh khu vực Biển Đông, điều này phản ánh ý đồ mở rộng ảnh hưởng an ninh của Trung Quốc tại Đông Nam Á.

An ninh – quốc phòng trong chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc đã chuyển dịch từ hướng phòng thủ thuần túy sang thế chủ động kiểm soát, dựa trên triết lý ổn định để phát triển, hợp tác để cân bằng. Bắc Kinh không chỉ tìm cách giảm thiểu nguy cơ bị cô lập trong mạng lưới an ninh của Mỹ, mà còn tận dụng sự bất định trong chính sách Washington để củng cố vai trò như là bên bảo đảm an ninh khu vực có trách nhiệm. Tuy nhiên, chính sự mở rộng ảnh hưởng này cũng đặt ra thách thức trong khi Trung Quốc thành công trong việc điền vào khoảng trống an ninh ở Đông Nam Á, sự hiện diện quân sự ngày càng tăng lại khiến các nước ASEAN phải cảnh giác và tiếp tục một trạng thái cân bằng mong manh nhưng phản ánh đúng đặc trưng của trật tự khu vực hiện nay.

Về phần văn hóa – xã hội

Trung Quốc đang thể hiện nỗ lực song hành giữa định hình tư tưởng và cạnh tranh quyền lực diễn ngôn với Mỹ. Trong bối cảnh Washington dưới thời Trump thúc đẩy chính sách “America First” mang màu sắc đơn phương và bảo hộ, Bắc Kinh tận dụng khoảng trống này để củng cố hình ảnh một cường quốc phát triển hòa bình và đối tác có trách nhiệm. Diễn ngôn đối lập này được triển khai có hệ thống, vừa nhằm định vị Trung Quốc như một trung tâm ổn định trong trật tự khu vực, vừa để thách thức quyền dẫn dắt chuẩn mực của Mỹ tại Đông Nam Á.

Từ năm 2017, Trung Quốc đã đẩy mạnh các thông điệp chính trị xoay quanh khái niệm “cộng đồng cùng chung vận mệnh”, trong đó Đông Nam Á được xem là chuỗi đầu tiên của mô hình hợp tác cùng có lợi. Các phát biểu của Trung Quốc tại nhiều diễn đàn, hội nghị đều nhấn mạnh rằng “phát triển hòa bình, mở cửa và hội nhập” là nền tảng của trật tự khu vực mới, đối lập với xu hướng bảo hộ và tách rời chuỗi cung ứng mà chính quyền Trump theo đuổi. Việc Trung Quốc duy trì diễn ngôn ổn định, có tính tiên đoán cao, đã giúp nước này gia tăng niềm tin chính trị trong giới tinh hoa khu vực.

Song song, Bắc Kinh triển khai mạnh mẽ Ngoại giao nhân dân và truyền thông có chiến lược. Thông qua Viện Khổng Tử, các trung tâm nghiên cứu khu vực và hợp tác học thuật với các đại học ASEAN, Trung Quốc quảng bá các giá trị hợp tác cùng thắng. Các kênh truyền thông như CGTN, China Daily hay Global Times cũng mở rộng ấn phẩm tiếng Anh và tiếng địa phương tại Thái Lan, Indonesia và Philippines, góp phần khuếch tán hình ảnh Trung Quốc đáng tin cậy hơn trong khi Mỹ bị mô tả là bất định và vị kỷ.

Về bản chất, điều này chính là nỗ lực để cân bằng diễn ngôn trong cạnh tranh Mỹ – Trung. Thay vì chỉ dựa vào công cụ kinh tế hoặc quân sự, Bắc Kinh đang xây dựng một mặt trận nhận thức mềm, trong đó Đông Nam Á vừa là nơi thử nghiệm, vừa là tấm gương phản chiếu cho tham vọng định hình trật tự khu vực dựa trên nguyên tắc hợp tác, không can thiệp và cùng phát triển.

Hiệu quả và giới hạn trong điều chỉnh chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc

Trong bối cảnh cạnh tranh Mỹ – Trung ngày càng mang tính cấu trúc và lâu dài, việc Bắc Kinh đẩy mạnh điều chỉnh chính sách đối với Đông Nam Á thể hiện một nỗ lực rõ rệt nhằm duy trì vị thế trung tâm trong khu vực đang chuyển động nhanh. Các điều chỉnh này không chỉ mang tính phản ứng trước chính sách kiềm chế của Washington, mà còn phản ánh sự trưởng thành chiến lược của Trung Quốc trong cách tiếp cận Đông Nam Á như một không gian đệm giữa cạnh tranh toàn cầu và quản trị khu vực. Tuy nhiên, những thành công bước đầu của Trung Quốc đi kèm với các giới hạn mang tính cấu trúc đặc biệt trong vấn đề lòng tin chiến lược, sự cân bằng nội khối ASEAN và khả năng duy trì đà phát triển kinh tế trong dài hạn.

Trước hết, có thể khẳng định rằng các điều chỉnh chính sách của Bắc Kinh trong giai đoạn gần đây đã mang lại thành công bước đầu trong việc củng cố ảnh hưởng khu vực. Trên phương diện hình ảnh, Trung Quốc đã phần nào tái thiết lập được vai trò của mình như một đối tác ổn định và đáng tin cậy hơn trong mắt nhiều nước ASEAN. Sau giai đoạn căng thẳng vì đại dịch và cạnh tranh công nghệ, Bắc Kinh chuyển hướng sang chính sách ngoại giao ổn định, kết hợp giữa hợp tác kinh tế sâu rộng và diễn ngôn hòa bình nhằm giảm lo ngại của khu vực.

Về mặt ngoại giao, Trung Quốc thể hiện sự linh hoạt đáng kể trong cách tiếp cận ASEAN. Thay vì chỉ tập trung vào cơ chế đa phương, Bắc Kinh kết hợp hiệu quả giữa hợp tác song phương để xây dựng mạng lưới đối tác thân cận. Các nước như Campuchia, Lào, Thái Lan và phần nào là Malaysia cho thấy xu hướng nghiêng nhiều hơn về hợp tác với Trung Quốc, cả trong lĩnh vực kinh tế lẫn an ninh. Điển hình, việc Campuchia ký thỏa thuận mở rộng căn cứ Ream cho hải quân Trung Quốc, hay Lào chấp thuận nhiều khoản đầu tư hạ tầng do Bắc Kinh tài trợ trong khuôn khổ BRI đều là những biểu hiện cụ thể của sự gia tăng ảnh hưởng này. Song song đó, Trung Quốc cũng chủ động cải thiện hình ảnh thông qua các kênh ngoại giao từ hợp tác học thuật, truyền thông chiến lược, cho đến hoạt động ngoại giao nhân dân nhằm xây dựng những cảm nhận tích cực về một Trung Quốc chuẩn mực.

Tuy nhiên, khi quan sát kỹ hơn, những giới hạn và rủi ro trong điều chỉnh chính sách của Bắc Kinh tại Đông Nam Á cũng ngày càng rõ nét.

Giới hạn lớn nhất nằm ở mâu thuẫn nhận thức chiến lược giữa Trung Quốc và phần còn lại của ASEAN. Dù Bắc Kinh luôn khẳng định theo đuổi phát triển hòa bình và tôn trọng chủ quyền khu vực, nhưng hành vi trên thực tế đặc biệt là tại Biển Đông lại thường xuyên đi ngược với thông điệp đó. Các hoạt động bồi đắp đảo nhân tạo, quân sự hóa và đe dọa các hoạt động khai thác năng lượng của Philippines hay Việt Nam đã tạo ra hiệu ứng bất tín nhiệm trong nội bộ ASEAN. Từ góc độ nhận thức, các nước Đông Nam Á nhìn thấy một Trung Quốc vừa là đối tác phát triển, vừa là mối đe dọa tiềm tàng cho không gian chiến lược của họ. Chính mâu thuẫn này khiến ASEAN tiếp tục duy trì chính sách cân bằng, vừa hợp tác kinh tế với Trung Quốc nhưng vẫn vừa tìm kiếm sự bảo đảm an ninh từ Mỹ và các đối tác ngoài khu vực.

Giới hạn thứ hai nằm ở sự duy trì ảnh hưởng quân sự an ninh của Mỹ tại khu vực, vốn vẫn là một yếu tố khó có thể thay đổi trong ngắn hạn. Mặc dù Trung Quốc đã tăng cường đối thoại an ninh với ASEAN, nhưng Washington vẫn duy trì các lợi thế then chốt về quân sự, công nghệ và liên minh chiến lược. Các thỏa thuận mở rộng căn cứ giữa Mỹ và Philippines năm 2024, sự hiện diện của lực lượng Mỹ tại Singapore, cùng với mối quan hệ quốc phòng ngày càng sâu giữa Washington và Hà Nội[18], cho thấy Mỹ vẫn là người nắm đằng chuôi, bảo đảm an ninh chủ chốt trong cấu trúc khu vực. Trong khi đó, các sáng kiến an ninh của Trung Quốc vẫn bị đánh giá là mang tính biểu tượng, chưa đủ năng lực thay thế vai trò răn đe và bảo đảm ổn định của Mỹ. Điều này khiến quyền lực về an ninh của Trung Quốc ở Đông Nam Á vẫn ở mức hạn chế, chủ yếu dừng lại ở mức hợp tác phi truyền thống như cứu trợ nhân đạo, huấn luyện sĩ quan hay diễn tập hòa bình.

Một giới hạn khác có tính dài hạn và mang tính nền tảng là sức hấp dẫn kinh tế của Trung Quốc đang bị thử thách bởi các vấn đề nội tại. Tăng trưởng chậm lại, khủng hoảng bất động sản, và tình trạng thất nghiệp trong giới trẻ khiến Bắc Kinh khó duy trì khả năng cung cấp vốn và đầu tư như giai đoạn 2013 – 2019. Điều này khiến sức hấp dẫn dài hạn của Trung Quốc phụ thuộc nhiều hơn vào khả năng đổi mới mô hình tăng trưởng, chứ không chỉ dựa vào vốn và thị trường như trước.

Bên cạnh đó, một thách thức tiềm ẩn khác là sự thiếu đồng thuận trong nội bộ ASEAN đối với vai trò của Trung Quốc. Dù Bắc Kinh đã thành công trong việc thu hút một số nước Đông Dương và bán đảo Mã Lai, song các quốc gia hải đảo như Philippines, Indonesia và Việt Nam vẫn duy trì thái độ cảnh giác. Các nước này nhận thức rõ rằng sự phụ thuộc kinh tế không thể bù đắp cho rủi ro an ninh, và việc Trung Quốc khẳng định chủ quyền ở Biển Đông vẫn là yếu tố làm xói mòn lòng tin. Điều đó khiến ASEAN khó đạt đồng thuận khi xử lý vấn đề Biển Đông, và cũng khiến Trung Quốc không thể hoàn toàn chi phối nghị trình khu vực như mong muốn.

Xét một cách tổng thể, hiệu quả điều chỉnh chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc là tương đối, chứ không tuyệt đối. Bắc Kinh đã đạt được tiến bộ đáng kể trong việc duy trì vai trò trung tâm kinh tế, tạo ra đối trọng với Mỹ, mở rộng ảnh hưởng ngoại giao và làm giảm bớt tâm lý lo ngại Trung Quốc ở một số nước ASEAN. Tuy nhiên, các giới hạn về lòng tin chiến lược, ảnh hưởng quân sự và năng lực kinh tế nội tại cho thấy Trung Quốc vẫn chưa thể chuyển đổi hoàn toàn sức mạnh kinh tế thành quyền lực chính trị –  an ninh bền vững trong khu vực. Trong dài hạn, nếu không giải quyết được nỗi lo bị chi phối thì chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc có nguy cơ rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan khi mở rộng ảnh hưởng nhưng lại làm sâu sắc thêm nghi ngờ.

Kết luận

Việc Trung Quốc điều chỉnh chính sách Đông Nam Á trong giai đoạn hiện nay không chỉ là phản ứng ngắn hạn trước sự trở lại của “chủ nghĩa Trump” trong chính sách đối ngoại Mỹ, mà còn là kết quả của sự tái cấu trúc quyền lực mang tính hệ thống trong khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương. Khi Washington chuyển hướng chiến lược từ hợp tác thể chế sang cạnh tranh thực dụng, lấy thương mại, chuỗi cung ứng và an ninh làm công cụ chính, Bắc Kinh buộc phải định hình lại cách tiếp cận Đông Nam Á nhằm duy trì không gian ảnh hưởng và ngăn chặn xu hướng phi Trung Quốc trong chuỗi cung ứng khu vực. Điều này khiến chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc trở nên đa tầng hơn vừa mang tính phản ứng trước sức ép từ Mỹ, vừa thể hiện chủ động chiến lược trong việc tái khẳng định vai trò trung tâm của mình với ASEAN.

Khác với cách tiếp cận mang tính đối đầu của Mỹ, Trung Quốc lựa chọn một chiến lược đối ứng linh hoạt và khéo léo. Trong tương lai, khu vực Đông Nam Á sẽ tiếp tục đóng vai trò đấu trường trung gian nơi hai cường quốc kiểm nghiệm mô hình lãnh đạo khu vực của mình, một bên dựa trên trật tự tự do liên minh, bên kia dựa trên trật tự hợp tác phát triển. Trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược toàn cầu, hai ông lớn đang quan sát nhau một cách vô cùng sát sao, mỗi cử chỉ và phát ngôn đều được tính toán kỹ lưỡng, ẩn chứa những toan tính ảnh hưởng lâu dài. Đặc biệt cuộc gặp giữa Tập Cận Bình và Donald Trump bên lề APEC năm nay tại Busan sẽ mở ra những biểu hiện mới, không chỉ là một nghi thức ngoại giao đơn thuần, mà còn là sàn diễn để hai bên thử thách giới hạn, dò xét chiến lược và gián tiếp truyền đi những thông điệp tới toàn cầu sau một thời gian cạnh tranh căng thẳng trên thương trường.

Tác giả: Trương Quốc Lượng

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của Nghiên cứu Chiến lược. Mọi trao đổi học thuật và các vấn đề khác, quý độc giả có thể liên hệ với ban biên tập qua địa chỉ mail: [email protected]

Ghi chú:

*Ngoại giao giá trị là thể hiện nỗ lực xuất khẩu hoặc lan tỏa hệ giá trị chính trị – văn hóa của một quốc gia ra bên ngoài, coi đó là một phần trong quyền lực mềm.

*Ngoại giao lợi ích là cách tiếp cận trong chính sách đối ngoại dựa trên việc theo đuổi và bảo vệ các lợi ích cốt lõi của quốc gia, thay vì đặt trọng tâm vào giá trị, ý thức hệ hay các yếu tố đạo đức.

*Tài liệu tham khảo

1. ASEAN Secretariat. (2024). ASEAN Investment Report 2024: ASEAN Economic Community 2025 and Foreign Direct Investment. https://asean.org/book/asean-investment-report-2024-asean-economic-community-2025-and-foreign-direct-investment/

2. Jusoh, S. & Lin, J. (2025). The inaugural ASEAN-GCC-China summit: Economic aspirations amid strategic ambiguity. The China-Global South Project. https://chinaglobalsouth.com/analysis/asean-gcc-china-economic-summit-2025/

3. ASEAN Secretariat. (2024). Overview of ASEAN-China Comprehensive Strategic Partnership. https://asean.org/wp-content/uploads/2024/06/Overview-of-ASEAN-China-CSP-12-June-2024.pdf

4. S. Trade Representative. (2025). Association of Southeast Asian Nations (ASEAN). https://ustr.gov/countries-regions/southeast-asia-pacific/association-southeast-asian-nations-asean

5. East-West Centre & US-ASEAN Business Council. (2025). ASEAN Matters for America: Seventh Edition. Asia Matters for America. https://asiamattersforamerica.org/uploads/publications/2025-ASEAN-Matters-for-America.pdf

6. The White House. (2017). Presidential memorandum regarding withdrawal of the United States from the Trans-Pacific Partnership negotiations and agreement. https://trumpwhitehouse.archives.gov/presidential-actions/presidential-memorandum-regarding-withdrawal-united-states-trans-pacific-partnership-negotiations-agreement/

7. Seah, S., Lin, J., Martinus, M., Fong, K., Aridati, I., & Pham, T. P. T. (2024). The State of Southeast Asia: 2024 Survey Report. Singapore: ISEAS – Yusof Ishak Institute. Biểu đồ trang 66. https://www.iseas.edu.sg/wp-content/uploads/2024/03/The-State-of-SEA-2024.pdf

8. China Daily. (2013). Xi Jinping: China to further friendly relations with neighboring countries. https://www.chinadaily.com.cn/china/2013-10/26/content_17060884.htm

9. (2025). China, ASEAN fully complete negotiations on CAFTA 3.0. https://english.news.cn/20250521/1e4bdcf88c954673979778403c573603/c.html

10. ASEAN Secretariat. (2024). Joint Media Statement of the Twenty Third AEM-MOFCOM Consultation. https://asean.org/wp-content/uploads/2024/09/AEM-MOFCOM-23-JMS-Adopted.pdf

11. Arendse, H. (2024). China–ASEAN trade and investment relations. China Briefing. https://www.china-briefing.com/news/china-asean-trade-and-investment-relations/

12. (2025). China remains ASEAN’s largest trading partner for 16 consecutive years. https://english.news.cn/20250908/5f2e4703b0ee4c52a0e2291f2e9d94b0/c.html

13. Fung, D. (2022). The growing China–ASEAN economic ties. HKTDC Research. https://research.hktdc.com/en/article/OTUxMzk0NDE0

14. Sarmiento, P., Yang, H., & Yang, W. (2025). Chinese investment in ASEAN expands to benefit all. China Daily Global. http://epaper.chinadaily.com.cn/a/202503/25/WS67e1e50ea310358b44fde2b5.html

15. Lowy Institute Indo‑Pacific Development Centre. (2023). Infrastructure finance competition heating up. Lowy Institute Southeast Asia Aid Map. https://seamap.lowyinstitute.org/analysis/2023/infrastructure-finance-competition-heating-up/

16. Ministry of Defense of Japan. (2024). Defense of Japan 2024: Digest version. https://www.mod.go.jp/j/press/wp/wp2024/pdf/DOJ2024_Digest_EN.pdf

17. SPH Media Limited. (2024). Chinese warships plan visit to Cambodia amid US worries. The Straits Times. https://www.straitstimes.com/asia/se-asia/chinese-warships-plan-visit-to-cambodia-amid-us-worries

18. Garamone, J. (2024). S.–Vietnam cooperation growing, maturing, DOD official says. U.S. Department of War. https://www.war.gov/News/News-Stories/Article/Article/3653873/us-vietnam-cooperation-growing-maturing-dod-official-says/

Tags: chính sách Đông Nam ÁDonald Trump 2.0MỹTrung Quốc
ShareTweetShare
Bài trước

Chính sách của EU đối với khu vực châu Á – Thái Bình Dương: Tình hình triển khai năm 2025 và một số dự báo năm 2026

  • Thịnh Hành
  • Bình Luận
  • Latest
Cuba đương đầu với những thách thức chính trị trong nước

Cuba đương đầu với những thách thức chính trị trong nước

22/06/2025
Tin đồn về sự lung lay quyền lực của Tập Cận Bình: Hiện thực hay chỉ là biểu hiện của chiến tranh nhận thức?

Tin đồn về sự lung lay quyền lực của Tập Cận Bình: Hiện thực hay chỉ là biểu hiện của chiến tranh nhận thức?

04/06/2025
Tình hình xung đột tại Myanmar sau 3 năm: Diễn biến, tác động và dự báo

Tình hình xung đột tại Myanmar sau 3 năm: Diễn biến, tác động và dự báo

30/01/2024
Châu Á – “thùng thuốc súng” của Chiến tranh thế giới thứ ba

Châu Á – “thùng thuốc súng” của Chiến tranh thế giới thứ ba

18/09/2024
Xung đột quân sự Thái Lan – Campuchia: Cuộc chiến không có người chiến thắng

Xung đột quân sự Thái Lan – Campuchia: Cuộc chiến không có người chiến thắng

27/07/2025
Làn sóng biểu tình ở Indonesia: thực trạng, dự báo và vấn đề đặt ra đối với Việt Nam

Làn sóng biểu tình ở Indonesia: thực trạng, dự báo và vấn đề đặt ra đối với Việt Nam

01/09/2025
Tình hình Biển Đông từ đầu năm 2024 đến nay và những điều cần lưu ý

Tình hình Biển Đông từ đầu năm 2024 đến nay và những điều cần lưu ý

06/05/2024
Dấu hiệu cách mạng màu trong khủng hoảng chính trị ở Bangladesh?

Dấu hiệu cách mạng màu trong khủng hoảng chính trị ở Bangladesh?

07/08/2024
Triển vọng phát triển tuyến đường thương mại biển Á – Âu qua Bắc Băng Dương

Triển vọng phát triển tuyến đường thương mại biển Á – Âu qua Bắc Băng Dương

2
Khả năng phát triển của các tổ chức an ninh tư nhân Trung Quốc trong những năm tới

Khả năng phát triển của các tổ chức an ninh tư nhân Trung Quốc trong những năm tới

2
4,5 giờ đàm phán cấp cao Mỹ – Nga: cuộc chiến tại Ukraine liệu có cơ hội kết thúc?

Những điều đáng chú ý trong cuộc đàm phán Ngoại trưởng Nga – Mỹ tại Saudi Arabia

2
Tin đồn về sự lung lay quyền lực của Tập Cận Bình: Hiện thực hay chỉ là biểu hiện của chiến tranh nhận thức?

Tin đồn về sự lung lay quyền lực của Tập Cận Bình: Hiện thực hay chỉ là biểu hiện của chiến tranh nhận thức?

2
Liệu đã đến thời điểm nghĩ tới đàm phán hòa bình với Nga và các điều khoản sẽ thế nào?

Liệu đã đến thời điểm nghĩ tới đàm phán hòa bình với Nga và các điều khoản sẽ thế nào?

1
Quan hệ Nga-Trung-Triều phát triển nhanh chóng và hệ lụy đối với chiến lược của phương Tây

Quan hệ Nga-Trung-Triều phát triển nhanh chóng và hệ lụy đối với chiến lược của phương Tây

1
Campuchia triển khai Chiến lược Ngũ giác và những hàm ý đối với Việt Nam

Campuchia triển khai Chiến lược Ngũ giác và những hàm ý đối với Việt Nam

1
Nhìn nhận về quan hệ Nga – Triều hiện nay: Vị thế của một tiểu cường sở hữu vũ khí hạt nhân

Nhìn nhận về quan hệ Nga – Triều hiện nay: Vị thế của một tiểu cường sở hữu vũ khí hạt nhân

1
Điều chỉnh chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc trong bối cảnh thích ứng với những điều chỉnh chính sách Đông Nam Á của Trump 2.0

Điều chỉnh chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc trong bối cảnh thích ứng với những điều chỉnh chính sách Đông Nam Á của Trump 2.0

23/12/2025
Chính sách của EU đối với khu vực châu Á – Thái Bình Dương: Tình hình triển khai năm 2025 và một số dự báo năm 2026

Chính sách của EU đối với khu vực châu Á – Thái Bình Dương: Tình hình triển khai năm 2025 và một số dự báo năm 2026

21/12/2025
Quan hệ Việt Nam – Liên bang Nga năm 2025 và một số gợi mở chính sách

Quan hệ Việt Nam – Liên bang Nga năm 2025 và một số gợi mở chính sách

19/12/2025
Cục diện Trung Đông năm 2025: xung đột và cạnh tranh quyền lực

Cục diện Trung Đông năm 2025: xung đột và cạnh tranh quyền lực

17/12/2025
Triển vọng kinh tế toàn cầu 2026: Xây dựng trật tự trong hỗn loạn

Triển vọng kinh tế toàn cầu 2026: Xây dựng trật tự trong hỗn loạn

16/12/2025
Vai trò của mạng lưới người Hoa tại Campuchia trong công tác mặt trận thống nhất Trung Quốc: Tác động khu vực và hàm ý cho Việt Nam

Vai trò của mạng lưới người Hoa tại Campuchia trong công tác mặt trận thống nhất Trung Quốc: Tác động khu vực và hàm ý cho Việt Nam

14/12/2025
Kinh tế thế giới năm 2025, một số dự báo năm 2026 và một số vấn đề đặt ra đối với nền kinh tế Việt Nam

Kinh tế thế giới năm 2025, một số dự báo năm 2026 và một số vấn đề đặt ra đối với nền kinh tế Việt Nam

12/12/2025
Trung Quốc – “Đồng minh” của Châu Âu trong bối cảnh bế tắc?

Trung Quốc – “Đồng minh” của Châu Âu trong bối cảnh bế tắc?

10/12/2025

Tin Mới

Điều chỉnh chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc trong bối cảnh thích ứng với những điều chỉnh chính sách Đông Nam Á của Trump 2.0

Điều chỉnh chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc trong bối cảnh thích ứng với những điều chỉnh chính sách Đông Nam Á của Trump 2.0

23/12/2025
10
Chính sách của EU đối với khu vực châu Á – Thái Bình Dương: Tình hình triển khai năm 2025 và một số dự báo năm 2026

Chính sách của EU đối với khu vực châu Á – Thái Bình Dương: Tình hình triển khai năm 2025 và một số dự báo năm 2026

21/12/2025
167
Quan hệ Việt Nam – Liên bang Nga năm 2025 và một số gợi mở chính sách

Quan hệ Việt Nam – Liên bang Nga năm 2025 và một số gợi mở chính sách

19/12/2025
157
Cục diện Trung Đông năm 2025: xung đột và cạnh tranh quyền lực

Cục diện Trung Đông năm 2025: xung đột và cạnh tranh quyền lực

17/12/2025
532

Cộng đồng nghiên cứu chiến lược và các vấn đề quốc tế.

Liên hệ

Email: [email protected]; [email protected]

Danh mục tin tức

  • Bầu cử tổng thống mỹ
  • Châu Á
  • Châu Âu
  • Châu Đại Dương
  • Châu Mỹ
  • Châu Phi
  • Chính trị
  • Chuyên gia
  • Khu vực
  • Kinh tế
  • Lĩnh vực
  • Media
  • Phân tích
  • Podcasts
  • Quốc phòng – an ninh
  • Sách
  • Sự kiện
  • Sự kiện
  • Thông báo
  • Thư viện
  • TIÊU ĐIỂM – ĐẠI HỘI ĐẢNG XX TQ
  • Xã hội
  • Ý kiến độc giả
No Result
View All Result
  • Trang Chủ
  • Lĩnh vực
    • Kinh tế
    • Xã hội
    • Quốc phòng – an ninh
    • Chính trị
  • Khu vực
    • Châu Á
    • Châu Âu
    • Châu Mỹ
    • Châu Phi
    • Châu Đại Dương
  • Phân tích
    • Ý kiến độc giả
    • Chuyên gia
  • Thư viện
    • Sách
    • Tạp chí
    • Media
  • Podcasts
  • Giới thiệu
    • Ban Biên tập
    • Dịch giả
    • Đăng ký cộng tác
    • Thông báo

© 2022 Bản quyền thuộc về nghiencuuchienluoc.org.