Kinh tế Nhật Bản quả thực đang phục hồi nếu nhìn từ những số liệu, nhưng lại phải đối mặt với các vấn đề rủi ro cũ mới chồng chéo lên nhau, hình thành một môi trường vô cùng phức tạp và khắc nghiệt. Đặc biệt, kinh tế thế giới hiện nay đang có xu hướng rơi vào “siêu bong bóng”. Kinh tế Nhật Bản là nền kinh tế duy nhất chưa thoát khỏi nới lỏng tài chính, đương nhiên sẽ phải đối mặt với tình thế khó khăn hơn. Nói theo cách khác, trước khi thoát khỏi nới lỏng tài chính khó có thể nói rằng nền kinh tế Nhật Bản sẽ phục hồi thực sự.
“Kinh tế Nhật Bản đang vào giai đoạn bước ngoặt để thoát giảm phát”, ngày 29/08 – Chính phủ Nhật Bản đưa ra định nghĩa mới cho nền kinh tế khi công bố “Báo cáo kinh tế và tài chính năm 2023”. Trước đó, theo số liệu thống kê trong quý II tốc độ tăng trưởng thực tế hàng năm của Nhật Bản (báo cáo nhanh đầu tiên) cao tới 6%. Mặc dù đã được điều chỉnh ngay sau đó thành 4,8% nhưng đây cũng là một tỷ lệ tương đối cao trong khi Mỹ đạt 2,1% trong cùng kỳ. Thị trường chứng khoán Nhật Bản gần đây cũng đang tăng mạnh. Ngày 03/07 giá cổ phiếu trung bình của Nikkei đã đạt 33.753 điểm, gần với mức cao nhất trong thời kỳ kinh tế bong bóng. Cố Giáo sư Masahiko Aoki của Đại học Stanford từng đề cập đến “thuyết chu kỳ 30 năm” và dự đoán rằng nền kinh tế Nhật Bản sẽ mất 30 năm để chuyển sang một “hệ thống thể chế mới”, và liệu dự đoán này có trở thành hiện thực?
Thị trường chứng khoán tăng vọt
Những năm gần đây “Kinh tế học Abe” chi phối chính sách kinh tế của Nhật Bản được phản ánh rõ ràng nhất trên thị trường chứng khoán. Hiện tại, giá cổ phiếu trung bình của Nikkei cao hơn gấp ba lần so với thời điểm cuối năm 2012 (10.395 điểm), năm mà ông Shinzo Abe trở thành thủ tướng lần thứ hai. Vào thời điểm đó, chính sách “nới lỏng tài chính táo bạo” được coi là một trong “ba mũi tên của Abe” đã ngăn chặn thành công việc đồng Yên liên tục tăng giá. Vào thời điểm đó, với tỷ giá 1 USD đổi 85 Yên nhanh chóng giảm xuống dưới 120 Yên. Đối với thị trường chứng khoán, ngoài sự “đóng góp” của Ngân hàng Nhật Bản (nắm giữ hơn 61 nghìn tỷ Yên trong các quỹ ETF), lượng mua ròng của vốn nước ngoài đã vượt quá 20 nghìn tỷ Yên tính đến năm 2016, cũng “góp phần không nhỏ” vào sự mất giá của đồng Yên.
Gần đây, các công ty quản lý tài sản lớn như BlackRock của Mỹ, Schroders của Anh, Amundi của Pháp đều đã nâng mức xếp hạng đầu tư của thị trường chứng khoán Nhật Bản từ “thiếu cân nhắc” (underweight) lên “trung tính”. Kể từ đầu năm nay, các ông trùm Phố Wall do Giám đốc điều hành Tập đoàn Blackstone Stephen Schwarzman đại diện cũng đã lần lượt đến thăm Nhật Bản và bày tỏ sự sẵn sàng đầu tư mạnh mẽ vào Nhật Bản. Buffett đã tuyên bố tại Tokyo vào tháng 4 rằng ông sẽ tăng cổ phần của 5 công ty thương mại lớn của Nhật Bản bao gồm Tập đoàn Itochu được mua vào năm 2020 từ 5% lên 7,4%, với giá trị vốn hóa thị trường là hơn 1,9 nghìn tỷ Yên.Theo khảo sát của Bộ Tài chính Nhật Bản, chỉ trong 9 tuần từ tháng 4 đến tháng 5 năm 2023, lượng mua ròng cổ phiếu của nhà đầu tư nước ngoài đạt 7,4 nghìn tỷ Yên. Giá bình quân cổ phiếu Nikkei đạt mức cao mới trong 33 năm kể từ khi nền kinh tế bong bóng phát triển bùng nổ của những năm 90 của thế kỷ XX.
Lợi nhuận ròng của các công ty niêm yết Nhật Bản cũng đang tăng lên và được kỳ vọng sẽ đạt mức cao mới trong 3 năm liên tiếp. Nihon Keizai Shimbun đã tiến hành phân tích và khảo sát 1.103 công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Tokyo Prime Market. Kết quả cho thấy, lợi nhuận ròng của các công ty niêm yết Nhật Bản trong năm tài chính 2023 sẽ tăng 6% so với cùng kỳ năm trước và tiếp tục đạt mức cao mới. Lấy Toyota làm ví dụ, lợi nhuận hợp nhất của hãng này từ tháng 4 đến tháng 6/2023 lần đầu tiên vượt qua 1,3 nghìn tỷ Yên, đạt mức giá trị hàng quý cao nhất trong lịch sử.
Doanh nghiệp chuyển đổi có hiệu quả
Kể từ khi nền kinh tế bong bóng sụp đổ vào năm 1992, các doanh nghiệp Nhật Bản gặp khó khi rơi vào tình trạng “ba loại thừa lớn” (việc làm, thiết bị, nợ) trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Các công ty Nhật Bản ngày nay, dựa vào việc chính phủ thúc đẩy cải cách chủ nghĩa tự do, đang xây dựng lại khả năng cạnh tranh quốc tế thông qua nỗ lực chuyển đổi chiến lược, tái cơ cấu doanh nghiệp, chuyển đổi mô hình kinh doanh và đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa. Đầu tiên, tình hình tài chính đã đi vào ổn định vững chắc hơn. Hiện nay, tỷ lệ vốn tự sở hữu trung bình của các công ty Nhật Bản trong tất cả các ngành (trừ tài chính và bảo hiểm) là 40,8%, trong đó ngành sản xuất lên tới 49,8%, cao hơn nhiều so với các công ty Mỹ. Thứ hai, thặng dư lợi nhuận tiếp tục tăng. Trong năm 2022, tổng thặng dư lợi nhuận của các công ty Nhật Bản (không bao gồm ngành tài chính và bảo hiểm) đã tăng lên 554,7 nghìn tỷ Yên, tương đương gần gấp ba lần so với năm 2000. Thứ ba, tỷ suất sinh lời trung bình vượt các công ty châu Âu và tiệm cận với các công ty Mỹ, tỷ suất lợi nhuận thường xuyên của toàn ngành đã tăng lên 6%, ngành sản xuất duy trì ở mức 7,9%. Các doanh nghiệp sản xuất lớn đạt tới 10,6%. Thứ tư, kinh doanh quốc tế hóa đã trở thành nét đặc trưng điển hình. Cho đến nay, cán cân đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản đã vượt quá 2 nghìn tỷ USD, trong đó sản xuất ở nước ngoài chiếm 35% và doanh thu bán hàng ở nước ngoài chiếm 38%. Thu nhập từ đầu tư nước ngoài quy mô lớn đã trở thành trụ cột cho cán cân thanh toán hiện tại của Nhật Bản. Vào năm 2022, cán cân thanh toán hiện tại của Nhật Bản đạt 35 nghìn tỷ Yên, bù đắp một cách hiệu quả thâm hụt thương mại khổng lồ do đồng Yên mất giá gây ra.
Công nghệ vẫn là “vũ khí sát thủ” của các doanh nghiệp Nhật Bản, giúp họ duy trì “sự hiện diện” trong hệ thống chuỗi giá trị toàn cầu. Trong bảng xếp hạng “100 tổ chức đổi mới sáng tạo toàn cầu” năm 2023 của Clarivate Analytics, 38 công ty Nhật Bản đã được chọn, vượt xa 19 công ty đứng thứ hai ở Mỹ. Theo khảo sát năm 2020 của Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản, nước này có 220 ngành công nghiệp chiếm hơn 60% thị phần toàn cầu, vượt qua cả Mỹ (99), châu Âu (50) và Trung Quốc (44).
Vấn đề phân hóa ngày càng trở nên nghiêm trọng
Gần đây, một cuộc đình công lớn bột phát đã mở ra những “vết sẹo” của nền kinh tế Nhật Bản. Ngày 31/8, cửa hàng bách hóa Toai Seibu ở Ikebukuro, một quận sầm uất của Tokyo đã phải đóng cửa do đình công. Hơn 900 nhân viên đã tham gia vào cuộc cuộc đình công “hiếm thấy trong 60 năm” này vì lo ngại lợi ích của họ sẽ không được đảm bảo do công ty sẽ bị bán cho một Quỹ đầu tư Mỹ. Trên thực tế, kể từ khi bước vào thời đại Heisei (1989-2019), địa vị người lao động Nhật Bản không ngừng bị suy giảm, khoảng cách giàu nghèo đã tạo ra sự phân hóa xã hội nhanh chóng.
Trong các cuộc cải cách chủ nghĩa tự do mới được chính phủ Nhật Bản thực hiện sau sự sụp đổ của nền kinh tế bong bóng, cải cách lao động chiếm một vị trí quan trọng. Để giúp các công ty giải quyết vấn đề thừa việc làm, “tự do hóa” và “tính lưu động” đã trở thành hai khẩu hiệu chính của cải cách lao động. Kết quả là sự xuất hiện của cái gọi là “nhân viên phi chính thức”, chủ yếu là nhân viên lưu động và thu nhập tiền lương của họ chỉ bằng 60% nhân viên chính thức. Hơn nữa, do không đảm bảo về số công lao động trong năm, truyền thống tăng lương hàng năm cũng đã mất đi. Ngày nay, số lượng lao động phi chính thức ở Nhật Bản đã lên tới 20,9 triệu người, chiếm 36% tổng số việc làm, làm tan rã hoàn toàn nền tảng xã hội của “tổng 100 triệu trung lưu”. Khoảng cách thu nhập ngày càng lớn đã gây ra tình trạng nghèo tương đối. Đến năm 2021, tỷ lệ nghèo tương đối của Nhật Bản tăng lên 15,4%, nghĩa là cứ 6,5 người thì có 1 người nghèo.
Số liệu cho thấy hiện nay mức tiết kiệm trung bình của các hộ gia đình Nhật Bản là 19 triệu Yên, trong đó 27% thực tế đang ở trạng thái “không có tiền gửi”. Vì cổ phiếu chỉ chiếm khoảng 14% tài sản tài chính hộ gia đình Nhật Bản nên sự tăng giá cổ phiếu hiện nay không những không mang lại sự giàu có cho hầu hết người dân mà còn làm trầm trọng thêm sự phân hóa giàu nghèo. Ngoài ra, do đồng Yên mất giá dẫn đến lạm phát nhập khẩu, giá cả tăng kỷ lục đã gây áp lực lớn lên đời sống người dân.Theo điều tra khảo sát của Bộ Nội vụ và Truyền thông cho thấy chi tiêu tiêu dùng của hộ gia đình Nhật Bản đã giảm 4,2% so với cùng kỳ trong tháng 6. Lạm phát cao cũng đe dọa thu nhập thực tế của người dân, thu nhập tiền lương thực tế của Nhật Bản đã liên tục giảm trong 15 tháng qua, lương tăng không theo kịp tốc độ tăng giá.
Các doanh nghiệp Nhật Bản cũng có xu hướng phân hoá nghiêm trọng. Lấy các cửa hàng bách hóa Togo và Seibu nơi cuộc đình công nổ ra lần này làm ví dụ. Togo và Seibu ban đầu là hai cửa hàng bách hóa đại diện lần lượt ở Osaka và Tokyo. Ba mươi năm trước, chỉ riêng doanh thu của Seibu đã lên tới 300 tỷ yên, ngang bằng so với bách hóa Mitsukoshi. Sau sự sụp đổ của nền kinh tế bong bóng, cuộc cách mạng công nghệ thông tin và sự trỗi dậy của thương mại điện tử đã ảnh hưởng nặng nề đến ngành hàng bách hóa truyền thống. Khi hoạt động kinh doanh không hiệu quả đã cố gắng hợp tác với Shihe Department Store để kéo vãn tình hình nhưng thất bại và được mua lại bởi 7&i (Seven & I). Giờ đây nó phải đối mặt với số phận bị chuyển giao cho một quỹ đầu tư của Mỹ. Điều kiện hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Nhật Bản càng đáng lo ngại hơn. Do thiếu nhân lực và giá cả tăng vọt, số doanh nghiệp vừa và nhỏ phá sản trong nửa đầu năm nay tăng 30% so với cùng kỳ năm ngoái lên tới hơn 4.000. Không còn nghi ngờ gì nữa, chính sách nới lỏng tài chính hiện nay được thực hiện ở Nhật Bản cũng đang che giấu sự thật rằng có một số lượng lớn các doanh nghiệp ma trong xã hội.
Rủi ro mới cũ chồng chéo nhau
Nguy cơ lạm phát cao đang trở thành mối đe dọa lớn nhất đối với nền kinh tế Nhật Bản. Kể từ tháng 4/2022, do ảnh hưởng cuộc khủng hoảng Ukraine và tỷ giá đồng Yên Nhật giảm giá mạnh, giá nhập khẩu nguyên liệu đầu vào tăng cao. Để bù chi phí, các công ty buộc phải tăng giá sản phẩm, dẫn đến lạm phát nhập khẩu lan rộng nhanh chóng. Nhằm đối phó với tình trạng giá cả tăng cao, Nhật Bản đã thông qua hai ngân sách bổ sung vào tháng 5 và tháng 12/2022, sử dụng quy mô tài chính lần lượt là 2,7 nghìn tỷ Yên và 28,9 nghìn tỷ Yên. Trong số chi tiêu ngân sách chung với tổng trị giá 114 nghìn tỷ Yên được thông qua vào tháng 3/2023, quỹ dự trữ kiểm soát giá vẫn cao tới 4 nghìn tỷ Yên. Một cuộc thăm dò do Nihon Keizai Shimbun thực hiện vào tháng 9/2023 cho thấy “kiểm soát giá cả” đã trở thành “kỳ vọng lớn nhất” của người dân đối với chính phủ. Vào ngày 20/9, Thủ tướng Fumio Kishida tiết lộ khi tham dự Đại hội đồng Liên hợp quốc rằng việc giải quyết lạm phát cao sẽ trở thành trụ cột cốt lõi trong đối phó với kinh tế mới.
Đi kèm với lạm phát cao, nguy cơ đồng Yên mất giá cũng trở thành vấn đề mới gây khó khăn cho nền kinh tế Nhật Bản. Hiện tại, tỷ giá đồng Yên Nhật đang tiến gần đến mốc 150 yên đổi 1 USD. Dữ liệu từ Ngân hàng Nhật Bản cho thấy tỷ giá hối đoái thực tế hiện tại là 74,31 và “sức mạnh của đồng Yên đang ở mức thấp nhất trong 53 năm”. Nguyên nhân chính dẫn đến sự sụt giảm sức mua của đồng Yên Nhật (lạm phát nhập khẩu) là do chính sách nới lỏng tài chính được Ngân hàng Nhật Bản thực hiện. Nhật Bản đã trở thành quốc gia duy nhất trong số các nền kinh tế lớn trên thế giới thực hiện nới lỏng tiền tệ, dẫn đến tình trạng mất giá liên tục của đồng Yên Nhật so với nhiều loại tiền tệ khác. Đồng thời cũng khiến sức mua thực sự trong nước của Nhật Bản giảm. Kết quả là, nhiệm vụ chính của các cơ quan tài chính Nhật Bản đã bị đảo ngược từ tránh việc đồng Yên tăng giá trong quá khứ sang tránh việc đồng Yên mất giá. Theo tiết lộ của giới truyền thông, từ tháng 9 đến tháng 10/2022, Nhật Bản đã sử dụng nguồn vốn khổng lồ hơn 9 nghìn tỷ Yên để can thiệp ngoại hối.
Trên thực tế, nguyên nhân chính khiến đồng Yên mất giá là do chênh lệch lãi suất rất lớn giữa nó và đồng Đô la Mỹ. Ngân hàng Nhật Bản không dám tăng lãi suất một cách dễ dàng vì làm như vậy đồng nghĩa với việc rút khỏi chính sách nới lỏng. Trong những năm gần đây, quy mô nợ quốc gia mới phát hành của Nhật Bản không ngừng tăng lên. Năm 2020 đã vượt quá 108 nghìn tỷ Yên, tổng nợ lên tới 1.270 nghìn tỷ Yên chiểm tỷ lệ 261% trên tổng sản phẩm quốc nội (GDP), vượt xa các nước trên thế giới. Khi ngân hàng trung ương trở thành nơi gánh nợ quốc gia, bảng cân đối kế toán của nó không ngừng tăng lên và hiện đạt 743 nghìn tỷ Yên, tương đương 132% GDP, gấp 2 đến 3 lần so với Ngân hàng Trung ương Châu Âu (58%) và Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (32%). “Trạng thái bất thường” này dẫn đến rủi ro tiền tệ chồng chéo với rủi ro tài chính. Bộ Tài chính chỉ ra rằng “cứ tăng lãi suất lên 1%, gánh nặng nợ công của Chính phủ sẽ tăng thêm 3,7 nghìn tỷ Yên”. Đây là lý do chính khiến Ngân hàng Nhật Bản khó có thể thoát khỏi chính sách nới lỏng của mình.
Tỷ lệ sinh thấp dân số già hóa vốn là vấn đề xương sống gây khó khăn cho nền kinh tế Nhật Bản cũng đang ngày càng xấu đi. Sau khi dịch bệnh Covid-19 mới bùng phát, tình hình dân số Nhật Bản ngày càng trở nên nghiêm trọng. Số ca sinh năm 2022 lần đầu tiên giảm xuống dưới 800.000. Tổng tỷ suất sinh (số con trung bình trên một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ ở một quốc gia) giảm xuống còn 1,26. Trong nửa đầu năm 2023, số trẻ mới sinh chỉ là 370.000, mức thấp kỷ lục. Ngược lại, số người trên 65 tuổi tăng lên 36,27 triệu người, chiếm 29% dân số và số tiền chi trả an sinh xã hội tăng lên 134 nghìn tỷ Yên, tăng 1,6 lần trong 20 năm qua. Già hóa dân số cũng làm giảm tốc độ tăng trưởng tiềm năng của GDP, làm trầm trọng thêm các vấn đề như giảm nguồn lao động đầu vào, vốn tiết kiệm bị thu hẹp và năng suất các yếu tố sản xuất giảm v.v.. Hiện nay tốc độ tăng trưởng tiềm năng của Nhật Bản là 0,3%, chỉ bằng 1/10 so với thời kỳ kinh tế bong bóng.
Tóm lại, nền kinh tế Nhật Bản quả thực đang phục hồi về mặt số liệu, nhưng lại phải đối mặt với vấn đề rủi ro mới và cũ chồng chéo lên nhau, hình thành một môi trường vô cùng phức tạp và khắc nghiệt. Đặc biệt kinh tế thế giới hiện nay có xu hướng rơi vào “siêu bong bóng”, dư nợ toàn cầu đã lên tới 307 nghìn tỷ USD (tương đương 336% tổng GDP toàn cầu). Là nền kinh tế duy nhất chưa thoát khỏi nới lỏng tài chính, nền kinh tế Nhật Bản rõ ràng sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Nói một cách dễ hiểu, khó có thể nói rằng nền kinh tế Nhật Bản sẽ có thể phục hồi thực sự trước khi thoát khỏi nới lỏng tài chính./.
Biên dịch: Nguyễn Phượng
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, không nhất thiết trùng với quan điểm của dịch giả và Nghiên cứu Chiến lược, vui lòng không sao chép khi chưa được phép. Mọi trao đổi học thuật và các vấn đề khác, quý độc giả có thể liên hệ với Ban Biên tập qua địa chỉ mail: [email protected]
Tác giả: Trương Ngọc Lai (张玉来) – Giáo sư tại Trung tâm Nghiên cứu Lịch sử Thế giới cận hiện đại thuộc Đại học Nam Khai, Phó Giám đốc Viện Nghiên cứu Nhật Bản (Trung Quốc).