Trong hơn năm năm qua, các tàu Trung Quốc hoạt động ở Biển Đông đã nhiều lần va chạm với tàu Philippines, đôi khi phun vòi rồng và làm bị thương nhân sự. Để đáp trả, Mỹ đã triển khai hệ thống tên lửa tầm trung Typhon đến quốc gia này vào năm ngoái. Đây là lần đầu tiên kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Mỹ cung cấp cho một đồng minh một vũ khí có tầm cỡ như vậy – và hành động này đã gây ra một cơn bão ngoại giao. Bộ Ngoại giao Trung Quốc lập luận rằng việc triển khai này “phá vỡ hòa bình và ổn định khu vực, làm suy yếu lợi ích an ninh hợp pháp của các quốc gia khác và đi ngược lại khát vọng hòa bình và phát triển của nhân dân.” Trung Quốc, bộ này tiếp tục, sẽ “không ngồi yên” nếu Philippines từ chối tháo dỡ hệ thống.
Các hành động và đe dọa của Bắc Kinh đối với Philippines là một phần trong nỗ lực rộng lớn hơn nhằm đối phó với chính sách “răn đe mở rộng” của Mỹ, một chiến lược cam kết Washington sẽ bảo vệ các đồng minh trước các hành động xâm lược, bao gồm trong một số trường hợp sử dụng vũ khí hạt nhân của Mỹ. Bắc Kinh từ lâu đã chỉ trích răn đe mở rộng của Mỹ, cho rằng đây là cách để Mỹ thúc đẩy lợi ích của mình chống lại Trung Quốc. Các quan chức Trung Quốc giờ đây đang tăng cường nỗ lực để làm suy yếu chính sách này. Họ miêu tả Mỹ là một thế lực gây mất ổn định trong khu vực, cố gắng lôi kéo các đồng minh của Mỹ bằng các biện pháp kinh tế khuyến khích và trừng phạt, đồng thời tiến hành các hoạt động quân sự ngày càng mang tính đối đầu. Những hành động này nhằm làm suy giảm uy tín của răn đe mở rộng của Mỹ, vốn dựa trên niềm tin vào Washington và niềm tin vào khả năng của Mỹ.
Việt Nam cũng là một quốc gia chịu áp lực ngày càng tăng từ Trung Quốc trong nỗ lực của Bắc Kinh nhằm làm suy yếu răn đe mở rộng của Mỹ ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Là một quốc gia có yêu sách ở Biển Đông, Việt Nam cũng gặp phải nhiều khó khăn do các hành động phi pháp của các thế lực bên ngoài, đặc biệt trong các vùng biển tranh chấp xung quanh quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã gia tăng sử dụng lực lượng tuần duyên và dân quân biển để quấy rối tàu cá và tàu thăm dò dầu khí của các nước. Ví dụ, vào năm 2019, tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 của Trung Quốc, được hộ tống bởi các tàu tuần duyên, đã xâm nhập vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam gần bãi Tư Chính, gây ra một sự bất đồng kéo dài nhiều tháng. Những sự cố như vậy không chỉ đe dọa an ninh hàng hải của Việt Nam mà còn thách thức quyền chủ quyền của nước này trong khu vực.
Về mặt kinh tế, Trung Quốc đã sử dụng cả biện pháp khuyến khích và gây khó khăn để gây ảnh hưởng lên Việt Nam. Chẳng hạn, Trung Quốc đã nhiều lần trì hoãn hoặc hạn chế xuất khẩu nông sản của Việt Nam, như trái cây và thủy sản, với lý do các tiêu chuẩn kiểm dịch nghiêm ngặt, đặc biệt trong những thời điểm căng thẳng chính trị gia tăng. Đồng thời, thông qua Sáng kiến Vành đai và Con đường, Trung Quốc đã đề xuất các dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn tại Việt Nam. Những động thái này nhằm mục đích lôi kéo Việt Nam vào quỹ đạo ảnh hưởng của Trung Quốc, từ đó làm giảm sự gắn kết của Việt Nam với các đối tác phương Tây, đặc biệt là Mỹ.
Trong lĩnh vực ngoại giao, Bắc Kinh đã tìm cách gây chia rẽ các diễn đàn khu vực, chẳng hạn như ASEAN, bằng cách gây áp lực lên các thành viên khác để ngăn chặn các tuyên bố chung mạnh mẽ về vấn đề Biển Đông. Trung Quốc cũng thường xuyên phản đối các hoạt động hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam và Mỹ, như các chuyến thăm cảng của tàu sân bay Mỹ tới Việt Nam (chẳng hạn như USS Carl Vinson vào năm 2018 và USS Theodore Roosevelt vào năm 2020). Những phản ứng này nhằm gửi thông điệp rằng Việt Nam sẽ phải trả giá nếu tăng cường quan hệ an ninh với Washington.
Về mặt quân sự, Trung Quốc đã tăng cường các hoạt động tuần tra và tập trận gần các khu vực tranh chấp với Việt Nam, bao gồm việc triển khai tàu chiến và máy bay quân sự gần quần đảo Trường Sa. Những hành động này không chỉ nhằm khẳng định yêu sách của Trung Quốc mà còn để thử thách quyết tâm của Việt Nam và các đối tác quốc tế, bao gồm Mỹ, trong việc duy trì tự do hàng hải ở Biển Đông. Hơn nữa, Trung Quốc đã đẩy mạnh việc xây dựng và quân sự hóa các đảo nhân tạo ở Trường Sa, trang bị chúng với các hệ thống radar, tên lửa và đường băng, tạo ra mối đe dọa trực tiếp đối với an ninh của Việt Nam.
Những hành động này của Trung Quốc đối với Việt Nam phản ánh chiến lược rộng lớn hơn của Bắc Kinh nhằm làm suy yếu răn đe mở rộng của Mỹ. Bằng cách gây áp lực lên Việt Nam – một quốc gia đang ngày càng tăng cường quan hệ đối tác chiến lược với Mỹ và các đồng minh như Nhật Bản, Úc và Ấn Độ – Trung Quốc tìm cách tạo ra sự nghi ngờ về cam kết của Washington trong việc bảo vệ các đối tác trong khu vực. Để đối phó, Mỹ cần tăng cường hỗ trợ Việt Nam thông qua các chương trình nâng cao năng lực hàng hải, chia sẻ tình báo và hợp tác kinh tế để giảm sự phụ thuộc của Việt Nam vào Trung Quốc. Việc củng cố quan hệ đối tác với Việt Nam không chỉ giúp tăng cường răn đe mở rộng của Mỹ mà còn gửi tín hiệu mạnh mẽ rằng Washington cam kết duy trì trật tự dựa trên luật lệ ở Biển Đông.
Đối với chính quyền Trump, việc duy trì răn đe mở rộng ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương nên là ưu tiên. Chính quyền này Bắc Kinh trong các diễn đàn ngoại giao, đối phó với các chiến thuật vùng xám của Trung Quốc, cũng như tăng cường hợp tác quân sự với các đồng minh khu vực. Nếu không, quyền lực và ảnh hưởng của Washington trong khu vực sẽ sớm bị lu mờ.
QUAN ĐIỂM TỪ BẮC KINH
Đối với các lãnh đạo Trung Quốc, răn đe mở rộng của Mỹ không phải là một chiến lược phòng thủ mà là một phần trong nỗ lực rộng lớn hơn của Mỹ nhằm kiềm chế và thậm chí đẩy lùi sự trỗi dậy của Trung Quốc. Bắc Kinh cũng bác bỏ ý kiến rằng răn đe mở rộng tồn tại vì các đồng minh của Mỹ mong muốn điều đó. Thay vào đó, các quan chức Trung Quốc xem chiến lược của Washington là sự áp đặt lên Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc và các quốc gia khác, mà theo quan điểm của Bắc Kinh, thuộc về phạm vi ảnh hưởng hợp pháp của Trung Quốc.
Các quan chức Mỹ từ lâu đã lập luận rằng răn đe mở rộng của Mỹ giúp kiểm soát sự phổ biến hạt nhân, vì các đồng minh của Mỹ dưới sự bảo vệ của ô hạt nhân Mỹ không thấy cần thiết phải phát triển kho vũ khí của riêng mình. Lập luận này không được chấp nhận ở Bắc Kinh. Theo học giả Guo Xiaobing từ Viện Quan hệ Quốc tế Đương đại Trung Quốc, “Khái niệm ‘răn đe mở rộng’ bản thân nó là một yếu tố chính góp phần vào sự phổ biến hạt nhân” vì nó lan truyền “vũ khí hạt nhân về mặt địa lý.” Bộ Ngoại giao Trung Quốc lặp lại quan điểm này, cáo buộc Mỹ có “tiêu chuẩn kép” về không phổ biến hạt nhân vì Mỹ “gây áp lực tối đa lên các đối thủ địa chính trị được cho là của mình” nhưng đồng thời “tăng cường chia sẻ hạt nhân và các thỏa thuận răn đe mở rộng” với các đồng minh.
Trong các diễn đàn ngoại giao, Bắc Kinh từ lâu đã tìm cách làm suy yếu răn đe mở rộng của Mỹ bằng cách chỉ trích Mỹ là một thế lực gây mất ổn định trong khu vực. Trong một bài phát biểu năm 2014, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình bày tỏ sự không hài lòng với vai trò bảo đảm an ninh của Mỹ. “Người dân châu Á nên quản lý các vấn đề của châu Á, giải quyết các vấn đề của châu Á và duy trì an ninh của châu Á,” ông Tập nói. “Người dân châu Á có khả năng và trí tuệ để đạt được hòa bình và ổn định trong khu vực thông qua hợp tác tăng cường.”
Trung Quốc cũng trực tiếp tấn công răn đe mở rộng của Mỹ. Năm ngoái, trong một cuộc họp của Hiệp ước Không phổ biến Hạt nhân, phái đoàn Trung Quốc đã đưa ra đề xuất không sử dụng vũ khí hạt nhân trước và dùng điều này để tấn công răn đe mở rộng, lập luận rằng nó đe dọa hòa bình, góp phần vào sự phổ biến hạt nhân và ngăn cản việc thiết lập các khu vực phi hạt nhân. Theo quan điểm này, không có chỗ cho các liên minh của Mỹ trong khu vực. Bắc Kinh cho rằng nếu Mỹ không duy trì sự hiện diện quân sự lớn ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, sẽ có ít khủng hoảng hơn để quản lý. Do đó, cách để ngăn chặn và giảm thiểu các khủng hoảng trong khu vực là Mỹ rút lực lượng của mình – hoặc hạn chế đáng kể việc sử dụng chúng.
Ngoài việc thách thức các liên minh của Mỹ và răn đe mở rộng trong các diễn đàn ngoại giao, Bắc Kinh thực hiện các hành động kinh tế để làm suy yếu vai trò khu vực của Washington. Bắc Kinh sử dụng cả biện pháp khuyến khích và trừng phạt. Trước khi bắt đầu đe dọa các tàu Philippines trên biển, Bắc Kinh đã cố gắng, nhưng không thành công, ngăn chặn sự hợp tác quân sự sâu sắc hơn giữa Philippines và Mỹ bằng cách đề nghị các dự án cơ sở hạ tầng lớn và các ưu đãi kinh tế thông qua Sáng kiến Vành đai và Con đường.
Năm 2016, sau khi Mỹ triển khai hệ thống Phòng thủ Tên lửa Tầm cao Giai đoạn Cuối (THAAD) tại Hàn Quốc, Bắc Kinh cấm các tour du lịch nhóm Trung Quốc đến Hàn Quốc, đưa các ngôi sao Hàn Quốc vào danh sách đen để họ không thể xuất hiện trên các chương trình truyền hình Trung Quốc, áp đặt các hạn chế đối với các doanh nghiệp Hàn Quốc tại Trung Quốc và loại Hàn Quốc khỏi một số sáng kiến ngoại giao và văn hóa do Trung Quốc dẫn dắt. Tương tự, sau khi Úc bắt đầu tăng cường quan hệ quốc phòng với Mỹ vào cuối những năm 2010, Bắc Kinh đã áp đặt các hạn chế đối với xuất khẩu của Úc.
Phản ứng quân sự của Bắc Kinh đối với răn đe mở rộng của Mỹ cũng trở nên quyết đoán hơn. Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã mở rộng việc sử dụng các chiến thuật vùng xám chống lại các đồng minh của Mỹ ở nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực hàng hải và không gian mạng, nơi không có ranh giới rõ ràng nào có thể kích hoạt phản ứng từ Mỹ. Bắc Kinh đã từng bước quân sự hóa Biển Đông, triển khai lực lượng tuần duyên và dân quân biển Trung Quốc để quấy rối tàu của các đồng minh Mỹ. Bắc Kinh cũng đã tổ chức các chiến dịch ảnh hưởng và các cuộc tấn công mạng nhắm vào Đài Loan và các đồng minh khác của Mỹ. Các hacker Trung Quốc cũng nhắm mục tiêu vào cơ sở hạ tầng quan trọng của Mỹ để thể hiện khả năng của Bắc Kinh trong việc làm gián đoạn các dịch vụ thiết yếu và ngăn chặn sự can dự của Mỹ vào các xung đột khu vực.
Trong nhiều năm, Trung Quốc đã tuần tra và tiến hành các cuộc tập trận quân sự ở các vùng biển tranh chấp, đồng thời tăng đáng kể quy mô và phạm vi của các cuộc tập trận này. Đô đốc Samuel Paparo, người đứng đầu Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Mỹ, đã gọi các cuộc tập trận này là “các buổi diễn tập” vì chúng mô phỏng các cuộc tấn công vào các đồng minh của Mỹ, chẳng hạn như một cuộc tấn công Đài Loan. Trong năm 2024 và 2025, ví dụ, Trung Quốc đã tiến hành các cuộc tập trận quy mô lớn (Joint Sword-2024A và Joint Sword-2024B) với sự phối hợp của hải quân, không quân, lực lượng tên lửa và tuần duyên Trung Quốc quanh Đài Loan. Đầu năm nay, Bắc Kinh cũng tăng cường các cuộc xâm nhập quân sự vào không phận và vùng biển của Đài Loan.
Cuối cùng, Bắc Kinh đang xây dựng lực lượng quân sự để cho phép hành động nhanh chóng, chẳng hạn như chiếm giữ và kiểm soát lãnh thổ gần Trung Quốc, và khiến Mỹ phải trả giá đắt nếu can thiệp. Tại Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 19 vào tháng 10 năm 2017, ông Tập tuyên bố Trung Quốc cam kết xây dựng “lực lượng quân sự đẳng cấp thế giới” vào năm 2049. Kể từ đó, Bắc Kinh đã đầu tư đáng kể vào vũ khí thông thường và hạt nhân. Theo Bộ Quốc phòng Mỹ, Trung Quốc có chương trình phát triển tên lửa đạn đạo tích cực và đa dạng nhất trên thế giới và hiện đang theo đuổi việc xây dựng lực lượng hạt nhân. Bắc Kinh cũng đang tăng cường khả năng trong không gian mạng, không gian vũ trụ và chiến tranh điện tử.
Tất cả những bước đi này nhằm khiến Mỹ do dự hành động trong trường hợp xảy ra tình huống bất ngờ – và gieo rắc nghi ngờ trong tâm trí các đồng minh của Mỹ rằng Washington sẽ tuân thủ các cam kết quốc phòng của mình.
ĐỘNG THÁI CỦA MỸ
Trung Quốc không phải là quốc gia duy nhất phản đối răn đe mở rộng của Mỹ. Nga từ lâu đã chỉ trích chiến lược này, và gần đây, hai quốc gia này đã hợp sức để đối phó. Tại một hội nghị thượng đỉnh ở Bắc Kinh vào đầu năm 2022, chỉ hai tuần trước khi Nga tiến hành cuộc xung đột toàn diện tại Ukraine, ông Tập và Tổng thống Nga Vladimir Putin tuyên bố một “tình hữu nghị không giới hạn.” Trong tinh thần đó, Bắc Kinh và Moskva đã thúc đẩy “ổn định chiến lược toàn cầu,” kêu gọi một thế giới đa cực hơn và chỉ trích Mỹ vì theo đuổi “an ninh tuyệt đối.” Họ đã chỉ trích thỏa thuận an ninh giữa Úc, Vương quốc Anh và Mỹ (AUKUS) như một trong những nỗ lực mới nhất để quân sự hóa khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, và họ bày tỏ lo ngại về kế hoạch của Mỹ triển khai thêm các tên lửa tầm trung trong khu vực của họ.
Bắc Kinh và Moskva cũng đang tăng cường hợp tác quân sự, tiến hành nhiều cuộc tập trận quân sự chung và các cuộc tuần tra chung trên không và trên biển ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương và Âu-Đại Tây Dương, bao gồm gần lãnh thổ của các đồng minh Mỹ như Nhật Bản và các nước Bắc Âu. Hơn nữa, theo một cuộc điều tra của Reuters năm 2024, Moskva đã thiết lập một chương trình bí mật tại Trung Quốc để phát triển các máy bay không người lái tấn công tầm xa. Nga cũng đang hỗ trợ Bắc Kinh phát triển một hệ thống cảnh báo sớm tên lửa.
Kể từ những thập kỷ đầu của thế kỷ này, các chính quyền Mỹ liên tiếp đã thực hiện các biện pháp quan trọng để thích nghi với cách tiếp cận đang thay đổi của Trung Quốc. Chính quyền Biden đã làm nhiều để tăng cường các liên minh khu vực, và việc dẫn dắt quan hệ đối tác an ninh AUKUS cũng đã giúp thúc đẩy sự ổn định trong khu vực. Chính quyền Trump dường như cam kết tiếp tục quỹ đạo này và tăng cường hơn nữa quốc phòng và răn đe khu vực. Để làm điều này một cách hiệu quả, Mỹ cần hành động thêm trên một số mặt trận.
Mỹ và các đồng minh phải tăng cường hợp tác an ninh. Trong các diễn đàn ngoại giao, Washington nên đẩy mạnh nỗ lực thách thức retoric của Trung Quốc về vai trò của Mỹ ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương và mục tiêu của răn đe mở rộng của Mỹ. Các quan chức Trung Quốc đã miêu tả Mỹ là một thế lực gây mất ổn định trong khu vực, nếu không muốn nói là một mối đe dọa hiện hữu đối với Trung Quốc. Phát biểu tại Đối thoại Shangri-La 2022, hội nghị thượng đỉnh quốc phòng lớn nhất châu Á hàng năm, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc khi đó là Ngụy Phượng Hòa đã gọi Mỹ là “kẻ bắt nạt” và cáo buộc Washington “can thiệp” vào các tranh chấp lãnh thổ trong khu vực. “Một số người ở Mỹ cố gắng kiềm chế Trung Quốc trên mọi mặt trận,” ông nói. Để giành lại quyền kiểm soát câu chuyện, các quan chức Mỹ nên làm rõ mục tiêu của răn đe mở rộng và chia sẻ hạt nhân. Washington cũng nên thu hút sự chú ý nhiều hơn đến các biện pháp ngày càng hung hăng của Trung Quốc đối với các đồng minh của Mỹ, cũng như việc xây dựng lực lượng hạt nhân của Bắc Kinh.
Ngoài ra, Mỹ nên tăng cường nỗ lực để đối phó với các chiến thuật vùng xám của Trung Quốc. Trong những năm gần đây, Washington và các đồng minh đã tăng cường hợp tác tình báo, và họ đã đối phó với thông tin sai lệch và các cuộc tấn công mạng. Họ nên tăng cường hơn nữa sự phối hợp chính sách và hoạt động, đồng thời nâng cao khả năng phục hồi ở các khu vực dễ bị tổn thương, chẳng hạn như Đông Nam Á và Thái Bình Dương. Để đối phó với các chiến dịch thông tin sai lệch của Trung Quốc, Washington và các đồng minh nên tích hợp tốt hơn các công cụ kinh tế của mình, như kiểm soát xuất khẩu và các biện pháp trừng phạt. Nếu không có hậu quả nghiêm trọng, Bắc Kinh sẽ tiếp tục và thậm chí tăng cường các hành động cưỡng chế của mình.
Quan trọng hơn, Mỹ và các đồng minh nên phát triển các khái niệm và năng lực quân sự cho phép họ đáp trả các hành động xâm lược một cách nhanh chóng và hiệu quả. Nói cách khác, họ nên nỗ lực hết sức để có thể ngăn chặn các hành động chiếm đoạt lãnh thổ của Trung Quốc. Họ nên sẵn sàng chiến đấu và giành chiến thắng trong một cuộc xung đột với Bắc Kinh nếu cần thiết, bất chấp bóng ma hạt nhân ngày càng lớn mà Trung Quốc đang tạo ra trong khu vực. Họ cũng nên xem xét cách tốt nhất để tận dụng sức mạnh quân sự tập thể của mình, bao gồm cả vũ khí hạt nhân, để đối phó với Trung Quốc.
Cuối cùng, Washington và các đồng minh nên dự đoán rằng Bắc Kinh và Moskva sẽ tăng cường quan hệ an ninh trong những năm tới. Mối quan hệ giữa Trung Quốc và Nga có những tác động đáng kể đối với cả khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương và Âu-Đại Tây Dương. Khi cả hai tăng cường hợp tác quốc phòng, Mỹ và các đồng minh từ các khu vực này cũng phải tăng cường hợp tác an ninh của mình. Nếu không làm như vậy, răn đe mở rộng của Mỹ có thể thất bại, với những hậu quả sâu rộng đối với quyền lực và ảnh hưởng của Mỹ.
Việc duy trì và tăng cường răn đe mở rộng đòi hỏi Mỹ phải đầu tư đáng kể vào cơ sở hạ tầng quân sự, triển khai lực lượng và phát triển vũ khí tiên tiến. Ví dụ, kế hoạch bảo vệ đảo Guam khỏi các mối đe dọa từ Trung Quốc dự kiến tiêu tốn khoảng 10 tỷ USD trong thập kỷ tới, bao gồm việc triển khai các hệ thống phòng thủ tên lửa như SM-3, Patriot PAC-3 và THAAD.
Chiến lược răn đe mở rộng có thể dẫn đến nguy cơ leo thang xung đột, đặc biệt khi đối mặt với các hành động quyết đoán từ Trung Quốc. Một nghiên cứu của RAND cảnh báo rằng việc tăng cường năng lực hạt nhân không nhất thiết ngăn chặn Trung Quốc sử dụng vũ khí hạt nhân trong một cuộc xung đột liên quan đến Đài Loan, và có thể dẫn đến hậu quả thảm khốc.
Sự cam kết của Mỹ đối với răn đe mở rộng có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố chính trị nội bộ và sự thay đổi trong chính sách đối ngoại. Chính sách “nước Mỹ trên hết” từng làm dấy lên lo ngại về khả năng Mỹ rút lui khỏi các cam kết an ninh, khiến các đồng minh như Hàn Quốc và Nhật Bản xem xét phát triển năng lực hạt nhân riêng./.
Biên dịch: Bùi Toàn
Tác giả: David San Toro là Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc điều hành của Diễn đàn Thái Bình Dương.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của Nghiên cứu Chiến lược. Mọi trao đổi học thuật và các vấn đề khác, quý độc giả có thể liên hệ với ban biên tập qua địa chỉ mail: [email protected]