Joe Biden được mệnh danh là “tổng thống xuyên Đại Tây Dương cuối cùng”. Trong thời gian cầm quyền của ông, EU đã lấy “La bàn chiến lược cho an ninh và quốc phòng” làm phương châm chính, dựa trên sự tự chủ chiến lược và tập trung vào việc tăng cường năng lực an ninh, quốc phòng xung quanh việc hỗ trợ Ukraine chống lại Nga. Mỹ đã liên tiếp ban hành Chiến lược An ninh Quốc gia và Chiến lược Quốc phòng Quốc gia nhằm duy trì quyền bá chủ toàn cầu, nhấn mạnh sự cạnh tranh và đối đầu với Trung Quốc và Nga, đồng thời nỗ lực tiếp tục duy trì hệ thống và năng lực an ninh hàng đầu của mình. Châu Âu và Mỹ tập trung vào cách tương tác với nhau về cách ứng phó với xung đột giữa Nga và Ukraine và xây dựng trật tự an ninh. Tuy nhiên, mối quan hệ an ninh này đang trải qua quá trình điều chỉnh, từ phát triển, cùng cố, ngày càng sâu sắc đến trì trệ. Nhất là khi Trump đã trở lại, quan hệ an ninh châu Âu và Mỹ có thể mở ra thời kỳ ảm đạm mới.
EU tiếp tục tăng cường năng lực an ninh và quốc phòng của mình
Trong vài năm qua, dưới sự điều phối của Đại diện cấp cao về chính sách đối ngoại và an ninh của EU và Ủy ban địa chính trị, tài liệu chính sách “La bàn chiến lược an ninh và quốc phòng” đã nhận được sự hỗ trợ tích cực từ Pháp, Đức và các nước khác, đã chính thức được ban hành vào tháng 3 năm 2022. Vì được triển khai vào thời điểm xung đột giữa Nga và Ukraine nổ ra nên chiến lược này không chỉ gánh vác sứ mệnh phát triển nền tự chủ chiến lược của EU mà còn đương nhiên được giao trách nhiệm hỗ trợ Ukraine chống lại Nga. Chiến lược đặt ra các mục tiêu và nhiệm vụ với thời gian biểu rõ ràng từ 4 khía cạnh chính: an ninh, đầu tư, hợp tác và hành động.
Sau gần ba năm nỗ lực, các mục tiêu, nhiệm vụ liên quan trên 4 phương diện của la bàn chiến lược về cơ bản đã hoàn thành đúng tiến độ. Hệ thống và năng lực an ninh, quốc phòng của EU đã được củng cố ở một mức độ nhất định và có thể nói rằng khối này đang hướng tới một liên minh phòng thủ “thực sự”.
Mỹ cố gắng duy trì các hệ thống và năng lực an ninh, quốc phòng
Trong vài năm qua, chính quyền Biden của Mỹ đã liên tiếp ban hành Chiến lược an ninh quốc gia và Chiến lược quốc phòng quốc gia, nhằm duy trì quyền bá chủ toàn cầu, nhấn mạnh cạnh tranh và đối đầu với Trung Quốc và Nga, đồng thời cố gắng tiếp tục duy trì an ninh và quốc phòng hàng đầu. hệ thống và khả năng. Chiến lược Phòng thủ Quốc gia của Mỹ được công bố vào tháng 10 năm 2022. Chiến lược này tin rằng Mỹ có thể dựa vào các đồng minh và đối tác của mình thúc đẩy các mục tiêu khu vực thông qua các phương thức chính như răn đe tích hợp, cạnh tranh và xây dựng lợi thế lâu dài, nhằm tạo ra một lực lượng liên hợp có đặc điểm là khả năng sát thương, tính bền vững, khả năng phục hồi, khả năng sinh tồn và sự nhanh nhẹn, để đánh bại đối thủ và giành chiến thắng trong cuộc cạnh tranh trong thập kỷ quyết định sắp tới.
Dưới thời chính quyền Biden, Mỹ đã đạt được những tiến bộ nhất định trong răn đe tổng hợp, cạnh tranh và thiết lập lợi thế lâu dài, đồng thời sức mạnh quân sự của nước này vẫn rất mạnh so với các nước khác. Tuy nhiên, xét theo báo cáo thường niên về “Chỉ số sức mạnh quân sự Mỹ” do Heritage Foundation, một cơ quan cố vấn của Mỹ công bố, chỉ số sức mạnh quân sự tổng thể của Mỹ đã giảm từ mức “tối thiểu” (cận biên) vào năm 2022 xuống mức mức “yếu” vào năm 2024. Chỉ số sức mạnh quân sự của Không quân đã bị tụt hai bậc liên tiếp từ mức “tối thiểu” vào năm 2021 xuống mức thấp nhất “rất yếu”, tức là có nguy cơ ngày càng tăng là quân đội Mỹ sẽ không thể bảo vệ các lợi ích cốt lõi của họ, không những không có khả năng chiến thắng hai cuộc chiến tranh hoặc xung đột cục bộ cùng một lúc mà thậm chí chỉ một cuộc chiến cũng có thể khiến Mỹ gặp khó. Mỹ đang cố gắng duy trì các hệ thống, năng lực an ninh và phòng thủ của mình, đồng thời triển vọng về việc duy trì quyền bá chủ toàn cầu của nước này đang rất đáng lo ngại.
Quan hệ an ninh châu Âu và Mỹ có những thay đổi từ củng cố, phát triển ngày càng sâu sắc đến trì trệ
Đánh giá từ quá trình xây dựng và phát triển tổng thể của hệ thống và năng lực an ninh châu Âu và Mỹ, sức mạnh của EU đang dần trở nên mạnh mẽ hơn, sức mạnh của Mỹ đang dần suy yếu và khoảng cách quyền lực giữa hai bên ngày càng thu hẹp. Trong ngắn hạn, sự thay đổi quyền lực nhỏ này khó có thể tác động lớn đến quan hệ an ninh song phương, nhưng ít nhiều sẽ có tác động tinh tế đến tâm lý, thậm chí cả khả năng phán đoán của cả hai bên. Điều quan trọng nhất là do xung đột Nga-Ukraine bùng nổ, cả châu Âu và Mỹ đều đã có những điều chỉnh nhất định về mục tiêu chiến lược, trọng tâm quyền lực và đường đi của mình.
Năm 2021, quan hệ an ninh châu Âu và Mỹ bắt đầu điều chỉnh trong bối cảnh có nhiều cú sốc. Sau khi trải qua nhiều xích mích và sóng gió trong quan hệ Âu Mỹ trong nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên của Trump, EU và nhiều quốc gia thành viên đã háo hức đưa ra “Chương trình nghị sự mới của châu Âu và Mỹ trong sự thay đổi toàn cầu” vào tháng 12 năm 2020, với hy vọng Biden sẽ đắc cử. Sau khi trở thành tổng thống, Châu Âu và Mỹ có thể thực hiện hợp tác xuyên Đại Tây Dương về các vấn đề an ninh và quốc phòng dựa trên tầm nhìn chiến lược chung và các biện pháp an ninh toàn diện.
Biden đã đến thăm châu Âu vào tháng 6 năm 2021 để tham dự Hội nghị thượng đỉnh châu Âu và Mỹ và Hội nghị thượng đỉnh NATO. EU và Mỹ đã ban hành “Tuyên bố của Hội nghị thượng đỉnh châu Âu và Mỹ về việc thiết lập quan hệ đối tác xuyên Đại Tây Dương mới” và lên kế hoạch khởi động đối thoại chuyên ngành và hợp tác chặt chẽ hơn về an ninh và quốc phòng. Hội nghị thượng đỉnh NATO đã đạt được sự đồng thuận về “Chương trình nghị sự 2030 của NATO” và hy vọng mở ra một chương mới trong quan hệ xuyên Đại Tây Dương của NATO. Tuy nhiên, vào nửa cuối năm 2021, quan hệ an ninh châu Âu và Mỹ ngay lập tức bị ảnh hưởng bởi những sự cố như vấn đề ở Afghanistan hay việc Mỹ, Anh và Australia hình thành “Đối tác an ninh ba bên” và chịu những tác động tiêu cực. Quan hệ an ninh giữa châu Âu và Mỹ bắt đầu ở mức cao nhưng sau đó bắt đầu điều chỉnh.
Năm 2022, quan hệ an ninh châu Âu và Mỹ sẽ nhanh chóng được củng cố do cuộc khủng hoảng ở Ukraine. Xung đột Nga-Ukraine nổ ra ngày 24/2 nhanh chóng trở thành ưu tiên trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng của châu Âu và Mỹ, thúc đẩy hiệu quả sự phối hợp chiến lược giữa hai bên. Châu Âu, Mỹ và NATO đã ban hành một loạt chính sách chiến lược quan trọng. Mục tiêu nhằm tích cực phát triển các lực lượng an ninh và phòng thủ, đồng thời cố gắng xây dựng một môi trường cùng có lợi hơn. Biden đã đến thăm châu Âu hai lần vào tháng 3 và tháng 6 năm 2022 để tham dự hội nghị thượng đỉnh NATO. Châu Âu và Mỹ đã tổ chức cuộc đối thoại cấp cao đầu tiên với Nga cũng như cuộc đối thoại an ninh và quốc phòng đầu tiên giữa họ. Mỹ cũng đi đầu trong việc thành lập nhóm liên lạc quốc phòng Ukraine tại Căn cứ Không quân Ramstein ở Đức để điều phối các cuộc thảo luận giữa các quốc gia khác nhau về hỗ trợ quân sự cho Ukraine và các vấn đề khác. Quan hệ an ninh giữa châu Âu và Mỹ đã phục hồi và đã nhanh chóng được củng cố nhờ cuộc khủng hoảng Ukraine.
Năm 2023, quan hệ an ninh châu Âu và Mỹ ngày càng sâu sắc toàn diện để ứng phó với chiến tranh. EU và NATO đã ký tuyên bố chung thứ ba về hợp tác NATO-EU vào đầu năm, trong đó nêu rõ hai bên phải tăng cường hợp tác và nâng sự hợp tác lâu dài hiện có lên một tầm cao mới để giải quyết xung đột Nga-Ukraine. Chủ tịch Hội đồng Châu Âu khi đó là Michel và Chủ tịch Ủy ban Châu Âu Von der Leyen đã tới Washington vào tháng 10 năm 2023 để tham gia hội nghị thượng đỉnh châu Âu và Mỹ lần thứ hai trong nhiệm kỳ tổng thống của Biden. Michel chỉ ra rằng thế giới ngày nay cần một liên minh châu Âu và Mỹ mạnh mẽ để đối phó với những thách thức to lớn. Biden cho biết cả hai bên đều sát cánh cùng nhau trong các vấn đề lớn như xung đột Nga-Ukraine. Biden cũng đã đến Vilnius để tham dự hội nghị thượng đỉnh NATO vào tháng 7 năm đó và đánh giá cao mối quan hệ đối tác xuyên Đại Tây Dương đã được nâng lên tầm cao mới trong vài năm qua, khẳng định tầm quan trọng của nó như một “mỏ neo ổn định” toàn cầu. Châu Âu và Mỹ đã tổ chức cuộc đối thoại an ninh và quốc phòng lần thứ hai, ký thỏa thuận hành chính giữa Cơ quan Quốc phòng Châu Âu và Bộ Quốc phòng Mỹ, đồng thời tổ chức cuộc tập trận hải quân chung đầu tiên ở khu vực “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương”. Bất chấp những tác động tiêu cực như sự gia tăng cạnh tranh giữa các đảng chính trị ở Mỹ, quan hệ an ninh châu Âu và Mỹ vẫn ngày càng sâu sắc toàn diện ở mọi cấp độ, bao gồm hiểu biết chiến lược, khuôn khổ thể chế và năng lực hoạt động.
Năm 2024, quan hệ an ninh châu Âu và Mỹ có dấu hiệu trì trệ dưới ảnh hưởng của cuộc tổng tuyển cử. Ngày 9/7/2024, NATO sẽ tổ chức hội nghị thượng đỉnh tại Washington nhân dịp kỷ niệm 75 năm thành lập. Tuyên bố của Hội nghị thượng đỉnh NATO tại Washington tuyên bố rằng NATO công nhận năng lực phòng thủ châu Âu mạnh mẽ hơn sẽ tạo nên mối quan hệ tương tác và củng cố lẫn nhau với NATO. Trong bài phát biểu của mình, Biden nói rằng NATO, với tư cách là thành viên của an ninh toàn cầu, sẽ đảm bảo hiện thực hóa tầm nhìn chung về xây dựng một cộng đồng xuyên Đại Tây Dương hòa bình và thịnh vượng. Liên minh toàn cầu do Mỹ và châu Âu thành lập đã cung cấp cho Ukraine một lượng lớn viện trợ kinh tế, nhân đạo và vũ khí.
Mặc dù Von der Leyen đã được bầu lại làm Chủ tịch Ủy ban Châu Âu tại Hội đồng Nghị viện Châu Âu vào ngày 18 tháng 7 năm 2024, nhưng Biden đã tuyên bố rút khỏi chiến dịch tranh cử Tổng thống Mỹ vào ngày 21 tháng 7 và Phó Tổng thống Harris thừa nhận vào ngày 6 tháng 11 rằng bà đã tham gia cạnh tranh với Trump. Tuy nhiên, thất bại của Harris trong cuộc bầu cử tổng thống đã gây ra sự bất ổn lớn cho triển vọng quan hệ châu Âu và Mỹ, đồng thời cũng khiến quan hệ an ninh song phương rơi vào tình trạng trì trệ.
Công nghiệp quốc phòng châu Âu và châu Mỹ hình thành xu hướng vừa phát triển độc lập vừa hợp tác hỗ trợ lẫn nhau
Ngoài mối quan hệ song phương giữa EU với các quốc gia thành viên và Mỹ, quan hệ an ninh châu Âu và Mỹ còn bao gồm mối quan hệ ba bên lớn hơn giữa châu Âu, Mỹ và NATO. Dưới thời chính quyền Biden, quan hệ an ninh châu Âu và Mỹ đã có những thay đổi phức tạp.
Công nghiệp quốc phòng là nền tảng của các hệ thống cũng như năng lực an ninh của châu Âu và Mỹ. Năm 2024 có thể coi là năm “điểm sáng” của ngành công nghiệp quốc phòng châu Âu và Mỹ. Ủy ban Châu Âu đã đề xuất Chiến lược Công nghiệp Quốc phòng Châu Âu (EDIS) và Kế hoạch Công nghiệp Quốc phòng Châu Âu hỗ trợ (EDIP) vào tháng 3. NATO đã đạt được “Cam kết mở rộng năng lực công nghiệp” tại Hội nghị thượng đỉnh Washington vào tháng 7 năm ngoái. Bộ Quốc phòng Mỹ sau khi phát hành “Chiến lược Ngành Công nghiệp Quốc phòng 2024” (NDIS) lần đầu tiên vào tháng 1 năm 2024, đã lần lượt phát hành “Báo cáo Giữa kỳ Thực hiện Chiến lược Ngành Công nghiệp Quốc phòng Quốc gia” vào tháng 7, cũng như “Kế hoạch Thực hiện Chiến lược Ngành Công nghiệp Quốc phòng Quốc gia Tài chính 2025” (NDIS-IP) vào cuối tháng 10.
Châu Âu và Mỹ đã đưa ra các kế hoạch chiến lược cho ngành công nghiệp quốc phòng, trong đó có những cân nhắc thực tế nổi bật. Đồng thời, những kế hoạch chiến lược này phù hợp với những năm phát triển của ngành công nghiệp quốc phòng.
Đầu tiên, EU đạt được “sự sẵn sàng” để ứng phó với các mối đe dọa bằng cách tăng cường “Châu Âu hóa” ngành công nghiệp quốc phòng. Sau khi xung đột Nga-Ukraine bùng nổ, sự phát triển của ngành công nghiệp quốc phòng EU đã bước vào làn đường nhanh chóng. “Tuyên bố Versailles” và “La bàn chiến lược” ban hành vào tháng 3 năm 2022 yêu cầu các quốc gia thành viên tăng chi tiêu quốc phòng, tăng đầu tư, phát triển năng lực quốc phòng theo phương thức hợp tác, đồng thời củng cố và phát triển ngành công nghiệp quốc phòng, bao gồm cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ. “Đạo luật hỗ trợ sản xuất đạn dược” được thông qua vào tháng 5 năm 2023 đưa ra các biện pháp tài chính có mục tiêu và các biện pháp khác nhằm cải thiện khả năng sản xuất đạn dược, tên lửa và các bộ phận của chúng, đồng thời hỗ trợ các quốc gia thành viên cùng đặt hàng đạn dược và tên lửa. “Tăng cường ngành công nghiệp quốc phòng châu Âu thông qua Đạo luật mua sắm chung” được thông qua vào tháng 10 năm 2023 yêu cầu các quốc gia thành viên đoàn kết và hợp tác trong mua sắm quốc phòng, nâng cao hiệu quả chi tiêu công và ngăn chặn hiệu ứng phân tán và chèn ép quá mức. “Chiến lược Công nghiệp Quốc phòng Châu Âu” và “Kế hoạch Công nghiệp Quốc phòng Châu Âu” hỗ trợ được đề xuất vào tháng 3 năm 2024 coi ngành công nghiệp quốc phòng mạnh mẽ là điều kiện tiên quyết quan trọng để đạt được “sự sẵn sàng” quốc phòng và đề xuất sử dụng ngân sách 1,5 tỷ euro từ năm 2025 đến năm 2027 để nâng cao khả năng cạnh tranh của cơ sở công nghiệp và công nghệ quốc phòng của Châu Âu.
Thứ hai, Mỹ duy trì “hiệu quả” răn đe và “kiên trì” các lợi thế của mình bằng cách cải thiện quá trình “hiện đại hóa” hệ sinh thái quốc phòng. Mỹ tin rằng ngành công nghiệp quốc phòng của họ phải đối mặt với các vấn đề như thiếu công nhân lành nghề, sản xuất và mua sắm không linh hoạt cũng như rủi ro an ninh trong chuỗi cung ứng. Dưới thời chính quyền Biden, ông đã ban hành một số văn bản chính sách, trong đó có Chiến lược Công nghiệp Quốc phòng 2024, nhằm ưu tiên và điều phối việc xây dựng hệ sinh thái công nghiệp quốc phòng hiện đại, thúc đẩy những thay đổi giữa các thế hệ trong hệ sinh thái, tăng cường năng lực sản xuất công nghiệp quốc phòng và đẩy nhanh công nghệ. Chuyển đổi các ứng dụng và chuỗi cung ứng an toàn để làm cho chúng mạnh hơn, linh hoạt hơn và cuối cùng có thể đánh bại đối thủ một cách nhanh chóng.
Thứ ba, NATO luôn coi trọng các yêu cầu “tiêu chuẩn hóa” của ngành công nghiệp quốc phòng và hy vọng các thành viên sẽ tăng cường “khả năng tương tác” và “khả năng thay thế cho nhau”. NATO đang trở thành “người triệu tập hành động, người thiết lập tiêu chuẩn và người hỗ trợ thực hiện” cho ngành công nghiệp quốc phòng xuyên Đại Tây Dương.
Hiện nay, ngành công nghiệp quốc phòng châu Âu và Mỹ đã hình thành mối quan hệ phát triển độc lập và hợp tác, bổ sung cho nhau. Một là, các ngành công nghiệp quốc phòng của châu Âu và Mỹ có logic phát triển riêng. EU chú trọng hơn vào “Châu Âu hóa” và hy vọng thoát khỏi sự phụ thuộc quá mức vào Mỹ, đồng thời tăng cường hơn nữa hợp tác với khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Tình trạng này đã tạo ra xu hướng ly tâm nhất định trong mối quan hệ giữa EU và ngành công nghiệp quốc phòng Mỹ. Hai là, ngành công nghiệp quốc phòng châu Âu và Mỹ không chỉ thực hiện hợp tác song phương trực tiếp mà còn sử dụng NATO làm điểm kết nối và điểm chuẩn chính để đáp ứng “tiêu chuẩn hóa” của NATO và các yêu cầu khác. Việc kết nối cả hai sẽ thuận tiện hơn.
Quan hệ an ninh châu Âu và Mỹ có thể ảm đạm sau sự trở lại của Trump
Ngày 21/7/2024, Biden chính thức tuyên bố rút lui khỏi cuộc đua tổng thống Mỹ. Ủy ban châu Âu nhanh chóng đã chuẩn bị cho khả năng cựu Tổng thống Mỹ Trump trở lại Nhà Trắng.
Marco Overhaus, chuyên gia chính sách an ninh và quốc phòng tại Viện Chính trị và An ninh Quốc tế (SWP) của Đức, đã chỉ ra trong bài báo “Sự kết thúc của hòa bình ở châu Âu và Mỹ” rằng bất kể ai thắng cuộc bầu cử ở Mỹ, quan hệ xuyên Đại Tây Dương sẽ phải được thiết lập lại. Trong thời gian cầm quyền của Biden, tương tác giữa châu Âu và Mỹ tập trung vào cách đối phó với xung đột Nga-Ukraine và xây dựng trật tự an ninh, mối quan hệ an ninh giữa châu Âu và Mỹ đã trải qua quá trình phát triển từ điều chỉnh, tăng cường, sâu sắc đến chậm lại. Tình hình này không ổn định và sẽ bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố nội bộ và bên ngoài như sự thay đổi sức mạnh, sự phát triển của xung đột và sự thay đổi lãnh đạo.
Cả bản thân Trump, Phó Tổng thống đắc cử Vance và nhiều thành viên nội các khác do
Trump đề cử đều có những nghi ngờ và phàn nàn sâu sắc về quốc phòng châu Âu. Giải pháp của Trump cho xung đột Nga-Ukraine có thể không tính đến lợi ích và cảm xúc của EU cũng như các quốc gia thành viên. Có lẽ với sự hòa giải linh hoạt của tân Tổng thư ký NATO Mark Rutte, Mỹ sẽ không rút khỏi NATO nhưng được cho là sẽ đưa ra ngày càng nhiều yêu cầu khắt khe hơn đối với an ninh, quốc phòng của EU và các nước thành viên. Nếu EU không thể mong đợi sự hợp tác bổ sung với Mỹ, họ chỉ có thể dựa nhiều hơn vào sự phát triển độc lập và đẩy nhanh liên minh quốc phòng của chính mình. Trong nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Trump, quan hệ an ninh châu Âu và Mỹ có thể một lần nữa rơi vào tình trạng u ám, trải qua nhiều xích mích và sóng gió đáng kể./.
Lược dịch: Hoàng Hải
Tác giả: Yang Haifeng là Tổng thư ký Hiệp hội Châu Âu Thượng Hải. Một phần nội dung của bài viết này dựa trên công trình của tác giả tại Hiệp hội Châu Âu Thượng Hải và Đại học Phúc Đán.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của Nghiên cứu Chiến lược. Mọi trao đổi học thuật và các vấn đề khác, quý độc giả có thể liên hệ với ban biên tập qua địa chỉ mail: [email protected]