Tóm tắt: “Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” được chính thức đề xuất và hệ thống hóa bởi chính quyền Donald Trump, sau đó được chính quyền Biden kế thừa toàn diện và phát triển sâu rộng hơn. Mục đích của “Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” là duy trì ưu thế bá quyền của Mỹ và kiềm chế sự phát triển của Trung Quốc. Để thúc đẩy chiến lược này, Mỹ đã tăng cường hệ thống liên minh an ninh, chú trọng xây dựng quan hệ đối tác, không ngừng nâng cao “lợi thế phi đối xứng” trong cạnh tranh với Trung Quốc. Về quân sự, Mỹ tăng cường chi tiêu quốc phòng, thúc đẩy toàn diện “răn đe tích hợp” đối với Trung Quốc, từng bước gây sức ép lên Trung Quốc. Về kinh tế, Mỹ tăng thuế quan đối với Trung Quốc, tái cấu trúc hệ thống chuỗi cung ứng, cố gắng buộc các quốc gia trong khu vực “tách rời” kinh tế và khoa học công nghệ với Trung Quốc. Trước sự kiềm chế và chèn ép toàn diện của Mỹ, Trung Quốc phải chuẩn bị các sách lược ứng phó toàn diện.
“Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” và cạnh tranh kinh tế Mỹ – Trung Quốc
Chiến lược “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” của Mỹ nhằm mục đích “đảm bảo các đồng minh trong khu vực nhận thức được những rủi ro có thể phát sinh từ sự trỗi dậy của Trung Quốc”. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai, các chính quyền khác nhau có những ưu tiên và trọng tâm khác nhau.
Trong nhiệm kỳ đầu tiên của mình, Tổng thống Trump đã áp dụng chính sách đối đầu cứng rắn với Trung Quốc, tập trung vào việc áp thuế cao và sử dụng các biện pháp trừng phạt kinh tế như công cụ gây sức ép. Bằng cách vận dụng các điều khoản 232, 301 và 201 trong luật thương mại nội địa của Mỹ, chính quyền Trump đã áp thuế cao đối với lượng hàng hóa xuất khẩu trị giá 350 tỷ USD của Trung Quốc, chính thức khơi mào cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung.
Tuy nhiên, trong quá trình thúc đẩy “Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương”, Chính quyền Trump chủ yếu tập trung vào lĩnh vực quân sự và an ninh, mà không xây dựng các cơ chế kinh tế liên quan.
Chính quyền Biden áp dụng chiến lược đối với Trung Quốc theo hướng: “trừng phạt và cắt đứt chuỗi cung ứng, cạnh tranh để kiềm chế, liên minh bài Trung và hợp tác hạn chế”. Họ tập trung đầu tư vào các ngành công nghệ cao và các ngành công nghiệp tương lai trong nước, đoàn kết các đồng minh, và cạnh tranh trực tiếp với Trung Quốc.
Nhằm tăng cường sự hiện diện kinh tế của Mỹ tại khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, chính quyền Biden đã đề xuất Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương (Indo-Pacific Economic Framework, viết tắt là IPEF) nhằm lấp đầy khoảng trống kinh tế do chính quyền Trump để lại, cạnh tranh với Trung Quốc và sáng kiến “Vành đai và Con đường” của nước này, cũng như duy trì trật tự và quy tắc quốc tế do Mỹ dẫn đầu.
Tháng 10 năm 2021, Tổng thống Biden đã đề xuất khái niệm IPEF khi tham dự Hội nghị Cấp cao Đông Á lần thứ 16 qua hình thức trực tuyến. Đến tháng 5 năm 2022, Biden chính thức khởi động khuôn khổ này trong chuyến thăm Nhật Bản. IPEF có 14 quốc gia thành viên, gồm: Mỹ, Úc, Brunei, Fiji, Ấn Độ, Indonesia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, New Zealand, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam, trong đó có 7 quốc gia thành viên ASEAN.
IPEF được xây dựng dựa trên bốn trụ cột chính: Kinh tế kết nối, Kinh tế bền vững, Kinh tế sạch và Kinh tế công bằng. Tổng GDP của 14 thành viên chiếm 40% GDP toàn cầu, thương mại hàng hóa và dịch vụ chiếm 28% tổng thương mại thế giới. Tuy nhiên, khác với RCEP và CPTPP, IPEF không phải là một hiệp định thương mại mà là một sáng kiến hành chính, không bao gồm các nội dung về cắt giảm thuế quan hay mở cửa thị trường, mà chủ yếu tập trung vào đàm phán tiêu chuẩn và quy tắc kinh tế thương mại trong khu vực.
Mục tiêu cốt lõi của chính quyền Biden khi thúc đẩy IPEF là tăng cường quan hệ với các nền kinh tế then chốt và đồng minh trong khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Thiết lập một hệ thống quy tắc thương mại do Mỹ dẫn dắt, đồng thời xây dựng chuỗi cung ứng không có sự tham gia của Trung Quốc, nhằm “tách rời và cắt đứt” Trung Quốc trong lĩnh vực kinh tế và công nghệ.
Cựu Bộ trưởng Thương mại Mỹ, bà Raimondo, từng nhận định IPEF là “bước ngoặt quan trọng nhằm khôi phục vai trò lãnh đạo kinh tế của Mỹ tại khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, cung cấp giải pháp thay thế Trung Quốc cho các quốc gia trong khu vực”. Trên thực tế, IPEF là một công cụ chính trị phục vụ cho việc duy trì quyền bá chủ kinh tế khu vực của Mỹ. Thông qua việc kiểm soát chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị, và các mô hình kinh tế mới, cố ý loại trừ một số quốc gia, chính trị hóa và vũ khí hóa các vấn đề kinh tế. Sử dụng các biện pháp kinh tế để ép buộc các quốc gia trong khu vực phải chọn phe giữa Mỹ và Trung Quốc.
Về hiệu quả thực tế, IPEF nhằm mở rộng sự hiện diện kinh tế của Mỹ tại khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, phục vụ chủ nghĩa bảo hộ thương mại của Mỹ, đi ngược lại mong muốn của các quốc gia trong khu vực về tăng cường hợp tác kinh tế và phục hồi kinh tế. Đồng thời, IPEF chưa được Quốc hội Mỹ phê chuẩn mà chỉ được thúc đẩy thông qua sắc lệnh hành pháp của tổng thống, thiếu tính ràng buộc pháp lý và dễ bị ảnh hưởng bởi các biến động chính trị cấp cao tại Mỹ.
Việc Trump trở lại nhiệm kỳ thứ hai, dưới định hướng của chủ nghĩa bảo hộ “Nước Mỹ trên hết”, Mỹ có thể sẽ rút khỏi các hiệp định thương mại không có lợi cho mình. Khi đó, IPEF mà Trump gọi là “TPP phiên bản 2.0”, có nguy cơ bị hủy bỏ.
Để thực hiện mục tiêu “duy trì quyền bá chủ và kiềm chế Trung Quốc” thông qua chiến lược “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương”, ngoài việc tích cực xây dựng IPEF như một “vòng tròn kinh tế nhỏ” nhằm bao vây Trung Quốc, Mỹ còn triển khai một loạt biện pháp sau:
Thứ nhất, Mỹ lấy danh nghĩa bảo vệ “an ninh quốc gia” để đưa ra nhiều biện pháp nhằm kiềm chế sự phát triển khoa học công nghệ và công nghiệp của Trung Quốc. Bằng cách dựng lên các rào cản công nghệ cao, tăng cường kiểm soát đầu tư của Trung Quốc tại Mỹ, siết chặt kiểm soát xuất khẩu các sản phẩm công nghệ của Mỹ. Washington tìm mọi cách ngăn chặn các doanh nghiệp công nghệ cao của Trung Quốc tiếp cận các công nghệ then chốt, thiết bị và vật liệu cốt lõi.
Thứ hai, Mỹ đã tạo ra nhiều lý do để bao vây và chèn ép các doanh nghiệp và tổ chức nghiên cứu công nghệ cao của Trung Quốc có năng lực cạnh tranh quốc tế. Tính đến thời điểm này, Mỹ đã đưa hơn 1.300 doanh nghiệp, trường đại học và tổ chức của Trung Quốc vào các danh sách trừng phạt, bao gồm danh sách đen, danh sách chưa được xác minh, danh sách doanh nghiệp quốc phòng, và danh sách cấm đầu tư. Các doanh nghiệp và tổ chức Trung Quốc bị trừng phạt thuộc nhiều lĩnh vực và ngành công nghiệp như chip bán dẫn, viễn thông, trí tuệ nhân tạo, dược phẩm sinh học, hàng không vũ trụ, giáo dục và nghiên cứu. Các biện pháp trừng phạt chủ yếu bao gồm hạn chế hoặc cấm xuất khẩu hàng hóa và công nghệ có nguồn gốc từ Mỹ hoặc chứa công nghệ Mỹ. Hạn chế hoặc cấm các nhà đầu tư Mỹ đầu tư hoặc nắm giữ cổ phiếu, trái phiếu của của các tổ chức bị liệt kê. Hạn chế hoặc cấm tiến hành các hoạt động kinh doanh hoặc hợp tác thương mại với các tổ chức này. Các biện pháp trừng phạt của Mỹ đã gây thiệt hại nghiêm trọng đến quyền lợi hợp pháp của các doanh nghiệp Trung Quốc. Với bản chất lấy danh nghĩa cạnh tranh để thực hiện quyền bá chủ, phá hoại các quy tắc thương mại quốc tế và gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống kinh tế – thương mại toàn cầu.
Thứ ba, Mỹ tích cực thành lập các liên minh nhằm xây dựng một trận tuyến công nghệ kiềm chế Trung Quốc. Tháng 6 năm 2021, Hội đồng Thương mại và Công nghệ Mỹ – EU (U.S.-EU Trade and Technology Council) được thành lập với mục tiêu “thúc đẩy hợp tác thương mại, công nghệ và an ninh xuyên Đại Tây Dương theo định hướng dân chủ”. Dưới sự thúc đẩy của hội đồng này, quan hệ Mỹ – EU được định nghĩa là “đối tác trong chuyển đổi số và phát triển công nghệ mới”, với sự hợp tác dựa trên các giá trị dân chủ chung, nhằm điều phối và thúc đẩy các hành động chung của Mỹ và EU trong việc kiềm chế công nghệ Trung Quốc. Vào tháng 4 năm 2022, Mỹ đề xuất thành lập “Liên minh bán dẫn bốn bên” (CHIP4) với Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan, nhằm loại Trung Quốc ra khỏi liên minh chuỗi cung ứng bán dẫn toàn cầu. Vào tháng 8 năm 2022, chính quyền Biden ký ban hành “Đạo luật CHIP và Khoa học”, trong đó liệt kê rõ các điều khoản “rào chắn Trung Quốc”, cấm các doanh nghiệp nhận tài trợ liên bang mở rộng sản xuất chip tiên tiến tại Trung Quốc.
Thông qua các biện pháp trên, Mỹ đang cố gắng cắt đứt các mối quan hệ đầu tư công nghệ và phụ thuộc chuỗi cung ứng với Trung Quốc, áp chế không gian sinh tồn quốc tế của các doanh nghiệp công nghệ cao Trung Quốc. Từ đó kiềm chế đà tăng trưởng kinh tế của nước này .
Sau khi tái đắc cử, ông Trump sẽ tiếp tục coi Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh số một và thực hiện các biện pháp kiềm chế toàn diện đối với Bắc Kinh. Dựa trên những phát biểu của ông trong chiến dịch tranh cử tổng thống, nhiệm kỳ thứ hai của ông Trump có thể sẽ gây sức ép lên Trung Quốc từ các khía cạnh sau:
Thứ nhất, tiếp tục sử dụng chính sách thuế quan để áp đặt mức thuế cao hơn đối với hàng nhập khẩu, đặc biệt là hàng hóa từ Trung Quốc.
Thứ hai, hủy bỏ quy chế “Tối huệ quốc” dành cho Trung Quốc.
Thứ ba, ngừng nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu do Trung Quốc sản xuất.
Thứ tư, mạnh tay trấn áp hành vi trốn thuế của hàng hóa Trung Quốc xuất khẩu sang Mỹ thông qua nước thứ ba.
Thứ năm, ngăn chặn Trung Quốc mua bất động sản và doanh nghiệp công nghiệp của Mỹ.
Thứ sáu, hạn chế nhập khẩu ô tô Trung Quốc để phục hồi ngành công nghiệp ô tô Mỹ.
Thứ bảy, đưa các chuỗi cung ứng quan trọng trở lại Mỹ.
Trong bối cảnh này, xung đột thương mại và “chiến tranh lạnh công nghệ” giữa Mỹ và Trung Quốc là không thể tránh khỏi. Quan hệ song phương cũng sẽ đối mặt với những thách thức nghiêm trọng hơn.
Lựa chọn chiến lược của Trung Quốc để đối phó với tình hình khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương
Trong một thời gian dài, Mỹ đã tự coi mình là người ủng hộ “trật tự quốc tế dựa trên luật lệ” trong các vấn đề đối ngoại. Tuy nhiên, thực chất của khái niệm này là “trật tự thế giới tự do do Mỹ và các đối tác của mình thiết lập, được củng cố bởi năm tổ chức quốc tế chính: Liên Hợp Quốc, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại (GATT, tiền thân của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO) và Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO)”.
Mỹ thúc đẩy cái gọi là “trật tự quốc tế dựa trên luật lệ” nhằm nắm quyền diễn giải và sử dụng luật pháp quốc tế theo lợi ích của mình, độc quyền định nghĩa các quy tắc và trật tự quốc tế, thay thế các nguyên tắc quốc tế được chấp nhận rộng rãi bằng “luật lệ” của một số ít quốc gia, và áp đặt ý chí cùng tiêu chuẩn của mình lên các nước khác. Bản chất của điều này chính là chính trị cường quyền.
Trong quan hệ với Trung Quốc, Mỹ cũng tuân thủ nguyên tắc “cường quyền là chân lý”, nhấn mạnh việc “tiếp xúc với Trung Quốc từ vị thế sức mạnh”. Trước chiến lược kiềm chế Trung Quốc thông qua “Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” của Mỹ, Trung Quốc cần áp dụng các biện pháp mạnh mẽ để chủ động đối phó.
Trước hết, kiên định bảo vệ hệ thống quốc tế lấy Liên Hợp Quốc làm trung tâm, tích cực xây dựng cộng đồng chung vận mệnh nhân loại.
Trong các vấn đề quốc tế, Trung Quốc luôn kiên trì tuân thủ hệ thống quốc tế lấy Liên Hợp Quốc làm trung tâm, trật tự quốc tế dựa trên luật pháp quốc tế, và các nguyên tắc cơ bản của quan hệ quốc tế dựa trên mục đích và nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp Quốc, thay vì cái gọi là “trật tự dựa trên luật lệ” do một nhóm nhỏ các quốc gia thúc đẩy. Trung Quốc ủng hộ một thế giới đa cực bình đẳng và có trật tự, cũng như toàn cầu hóa kinh tế bao trùm và cùng hưởng lợi. Phản đối việc một số ít quốc gia độc quyền chi phối các vấn đề quốc tế.
Đối với quốc tế, Trung Quốc đã đề xuất xây dựng “cộng đồng chung vận mệnh nhân loại”. Đây là giải pháp của Trung Quốc đưa ra cho câu hỏi “xây dựng một thế giới như thế nào và bằng cách nào xây dựng nó”. Dưới sự dẫn dắt của tư tưởng này, Trung Quốc kiên trì quan điểm quản trị toàn cầu “cùng bàn bạc, cùng xây dựng và cùng hưởng lợi”. Đồng thời đưa ra các sáng kiến như “Sáng kiến Phát triển Toàn cầu, Sáng kiến An ninh Toàn cầu và Sáng kiến Văn minh Toàn cầu”. Qua đó đóng góp giải pháp và sức mạnh của Trung Quốc để cùng nhau ứng phó với các thách thức toàn cầu.
Do đó, các quốc gia tiến bộ, bao gồm cả Trung Quốc, cần điều chỉnh cách tiếp cận đơn phương chống lại sự bá quyền của phương Tây, từng bước hình thành một mặt trận thống nhất quốc tế chống bá quyền, nhằm nâng cao tiếng nói và vị thế quốc tế.
Thứ hai, kiên trì con đường đúng đắn trong quan hệ song phương, thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại Mỹ- Trung Quốc phát triển ổn định và lâu dài.
Ngày 7 tháng 11 năm 2024, Chủ tịch Tập Cận Bình trong điện mừng gửi Tổng thống đắc cử Donald Trump đã nhấn mạnh: “Mỹ- Trung hợp tác thì cùng có lợi, đối đầu thì cùng tổn hại. Một mối quan hệ Mỹ- Trung ổn định, lành mạnh và phát triển bền vững phù hợp với lợi ích chung của hai nước và kỳ vọng của cộng đồng quốc tế. Hy vọng hai bên tuân thủ nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, chung sống hòa bình, hợp tác cùng có lợi, tăng cường đối thoại và trao đổi, kiểm soát hợp lý bất đồng, mở rộng hợp tác cùng có lợi, tìm ra con đường đúng đắn để quan hệ Mỹ- Trung trong thời đại mới phát triển, mang lại lợi ích cho hai nước và cả thế giới.” Đây là đúc kết kinh nghiệm từ nhiều năm thiết lập quan hệ ngoại giao hai bên, đồng thời chỉ ra phương hướng phát triển của mối quan hệ này. Mỹ nên từ bỏ chiến lược kiềm chế Trung Quốc dựa trên cái gọi là “vị thế sức mạnh” và loại bỏ tư duy trò chơi có tổng bằng không.
Đối mặt với sự bao vây và kiềm chế của Mỹ đối với Trung Quốc thông qua “Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương”, Trung Quốc cần có biện pháp đối phó phù hợp.
Một là, kiên quyết phản đối chủ nghĩa bá quyền do Mỹ đứng đầu. Các lực lượng phản bá quyền như Trung Quốc, Nga, Iran, Triều Tiên v.v.. cần duy trì sự ổn định chiến lược trước liên minh bá quyền của Mỹ và phương Tây. Muốn giữ ổn định chiến lược thì phải duy trì cân bằng chiến lược, mà cân bằng này phụ thuộc vào sức mạnh tổng hợp trong các lĩnh vực kinh tế, khoa học công nghệ, ngoại giao, ý chí và lòng tin của người dân, đặc biệt là năng lực, ý chí và chiến lược trong đấu tranh quân sự.
Thứ hai, kiên quyết bảo vệ hệ thống an ninh và lợi ích của Trung Quốc. Mỹ có khoảng 750 căn cứ quân sự trên toàn cầu, trong đó hơn 300 căn cứ nằm xung quanh Trung Quốc, cho thấy nước này đang tiếp tục mở rộng ảnh hưởng tại khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Vấn đề Đài Loan là cốt lõi trong các lợi ích cốt lõi của Trung Quốc. Tuy nhiên, Mỹ đã thực hiện nhiều biện pháp như “tăng cường bảo vệ quân sự cho Đài Loan, hỗ trợ Đài Loan thúc đẩy chiến lược ‘dùng vũ lực chống thống nhất’”. Củng cố liên minh để ủng hộ Đài Loan, thúc đẩy quốc tế hóa vấn đề Đài Loan và tăng cường quan hệ kinh tế với Đài Loan, làm sâu sắc hơn sự phụ thuộc kinh tế lẫn nhau. Đặc biệt, Đạo luật Ủy quyền Quốc phòng năm tài chính 2024 của Mỹ chứa nhiều điều khoản nguy hiểm liên quan đến Đài Loan. Cần nhận thức rõ rằng vấn đề Đài Loan không đơn thuần là vấn đề quân sự, mà là một vấn đề chính trị mang tính chiến lược và toàn cục. Do đó, cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về các phương án đối phó trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, tài chính và ngoại giao dựa trên điều kiện thực tế của Trung Quốc. Trong bối cảnh các nước đế quốc với mức nợ công cao thường sử dụng chiến tranh để giảm nhẹ gánh nặng nợ nần, Trung Quốc cần nghiên cứu sâu các biện pháp trừng phạt của Mỹ và phương Tây đối với Nga trong xung đột Nga – Ukraine, từ đó chuẩn bị đầy đủ các phương án phòng ngừa rủi ro.
Thứ ba, xử lý thỏa đáng tác động từ việc chính quyền Trump có thể gia tăng xung đột thương mại với Trung Quốc trong nhiệm kỳ thứ hai. Chính quyền Trump đã gắn kết chặt chẽ các vấn đề thuế quan với dòng chảy công nghiệp, kiềm chế Trung Quốc, định hình lại phân công lao động quốc tế và bảo vệ an ninh kinh tế, với mục tiêu thay đổi dòng chảy thương mại, đầu tư tài chính toàn cầu, qua đó kìm hãm sự phát triển của kinh tế Trung Quốc. Để đối phó với điều này, Trung Quốc cần dựa trên lý luận và các biện pháp chính sách của kinh tế chính trị quốc tế, chú trọng đến vấn đề cân bằng thương mại với Mỹ. Một trong những lý do khiến Trump phát động chiến tranh thương mại là Trung Quốc có thặng dư thương mại lớn với Mỹ. Do đó, chìa khóa để giải quyết vấn đề là xây dựng nhận thức về cân bằng thương mại trong quan hệ Trung – Mỹ, thay vì chỉ theo đuổi thặng dư thương mại. Đồng thời, Trung Quốc cần tăng cường hợp tác thương mại với EU, châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh. Thúc đẩy thương mại đa phương và toàn diện nhằm giảm bớt sự phụ thuộc vào thị trường Mỹ.
Ngoài ra, cần tích cực thúc đẩy mục tiêu thịnh vượng chung trong nước. Kiên trì giá trị cốt lõi là đặt lợi ích của người dân lên hàng đầu, sử dụng logic nhân văn để vượt qua logic tư bản. Thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, nâng cao sức mua và tiêu dùng của người dân, từ đó mở rộng nhu cầu trong nước, củng cố nền tảng kinh tế – dân sinh để chống lại cuộc chiến thương mại và tài chính do Mỹ phát động nhằm vào Trung Quốc.
Thứ ba, kiên định ủng hộ toàn cầu hóa kinh tế công bằng, thúc đẩy hội nhập kinh tế khu vực.
Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa kinh tế, mở cửa và kết nối là xu thế lịch sử không thể ngăn cản. Năm 2024, Trung Quốc đã dẫn đầu 123 thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đạt được “Hiệp định tạo thuận lợi đầu tư vì phát triển”, nhằm nâng cao tính minh bạch của các biện pháp đầu tư, đơn giản hóa các thủ tục phê duyệt liên quan, thúc đẩy hợp tác đầu tư xuyên biên giới và làm cho dòng chảy đầu tư toàn cầu trở nên thông suốt hơn. Ngoài ra, Trung Quốc cũng đã chính thức nộp đơn xin gia nhập Hiệp định Đối tác Kinh tế Số (DEPA), tích cực tham gia quản trị kinh tế toàn cầu, cam kết đóng góp vào sự phát triển kinh tế toàn cầu.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, chủ nghĩa đơn phương và bảo hộ gia tăng, xu hướng phản toàn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ, gây ra những tác động nghiêm trọng đến chủ nghĩa đa phương và hệ thống thương mại tự do. Trong bối cảnh này, Trung Quốc cần tiếp tục kiên trì đi theo hướng toàn cầu hóa kinh tế đúng đắn, duy trì cục diện kinh tế quốc tế đa cực và ổn định, đồng thời nâng cao chất lượng và tính an toàn trong chiến lược tự chủ và mở cửa đối ngoại. Đặc biệt, Trung Quốc cần hoàn thiện một hệ thống tiền tệ độc lập hơn (bởi quyền phát hành tiền tệ cũng quan trọng như quyền lực chính trị, quân sự, công nghệ và truyền thông.)
Song song với việc đẩy nhanh xây dựng mô hình phát triển mới, Trung Quốc cần tiếp tục thúc đẩy hội nhập kinh tế khu vực. Tthúc đẩy tự do hóa, tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư, triển khai toàn diện “Kế hoạch Kết nối APEC (2015-2025)”, nhằm cùng chia sẻ cơ hội phát triển mở cửa trong khu vực.
Cuối cùng, xây dựng “Vành đai và Con đường” chất lượng cao, thúc đẩy cơ chế hợp tác khu vực lên tầm cao mới.
Từ khi Trung Quốc đề xuất sáng kiến “Vành đai và Con đường” vào năm 2013 đến năm 2022, tổng kim ngạch thương mại giữa Trung Quốc và các nước tham gia sáng kiến đã đạt 19,1 nghìn tỷ USD, trong khi tổng vốn đầu tư hai chiều vượt 380 tỷ USD. Hàng năm, doanh thu từ các dự án hợp đồng xây dựng của Trung Quốc tại các nước tham gia đạt khoảng 130 tỷ USD/năm, bao gồm nhiều công trình mang tính biểu tượng như đường sắt Trung Quốc – Lào, tuyến cao tốc Jakarta – Bandung (Indonesia), v.v.. Đến thời điểm này, hơn 150 quốc gia và 30 tổ chức quốc tế đã tham gia sáng kiến “Vành đai và Con đường”.
Với tư cách là một sản phẩm công toàn cầu được các nước đang phát triển đánh giá cao và một nền tảng thực tiễn quan trọng để xây dựng cộng đồng chung vận mệnh nhân loại, sáng kiến này mang đến giải pháp Trung Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác quốc tế bình đẳng cùng có lợi, cũng như cải thiện hệ thống quản trị toàn cầu.
Ngoài ra, Trung Quốc cũng tích cực thúc đẩy các cơ chế hợp tác như BRICS, Tổ chức Hợp tác Thượng Hải. Cơ chế hợp tác BRICS là một nền tảng quan trọng để các nền kinh tế mới nổi và các nước đang phát triển tăng cường đoàn kết, bảo vệ lợi ích chung. Từ ngày 01/01/2024, Ai Cập, UAE, Iran và Ethiopia chính thức gia nhập BRICS, và đến 01/01/2025, Indonesia trở thành thành viên đầy đủ, nâng tổng số quốc gia BRICS từ 5 lên 10. Hiện có hơn 30 quốc gia đã nộp đơn xin gia nhập, đánh dấu một kỷ nguyên “Đại BRICS” với tầm ảnh hưởng ngày càng mở rộng.
Ngày 4/7/2024, tại thủ đô Astana của Kazakhstan, Hội nghị Hội đồng Nguyên thủ Quốc gia các nước thành viên Tổ chức Hợp tác Thượng Hải lần thứ 24 đã chính thức tiếp nhận Belarus làm thành viên, nâng tổng số thành viên của tổ chức này lên 10 nước, bên cạnh 2 nước quan sát viên và 14 đối tác đối thoại. Sự mở rộng liên tục của Tổ chức Hợp tác Thượng Hải sẽ góp phần gia tăng sự ổn định toàn cầu và thúc đẩy hòa bình phát triển.
Để thúc đẩy hơn nữa quan hệ kinh tế và thương mại, nhiệm vụ cấp bách hiện nay là thúc đẩy Trung Quốc, Nga và các quốc gia khác nhanh chóng thiết lập một hệ thống thanh toán quốc tế độc lập, không phụ thuộc vào USD và EUR. Trong tương lai, Trung Quốc cần tiếp tục thúc đẩy các sáng kiến như “Vành đai và Con đường”, cơ chế hợp tác BRICS và Tổ chức Hợp tác Thượng Hải và các nền tảng đa phương khác, nhằm góp phần xây dựng các quan hệ quốc tế kiểu mới.
Kết luận
Khái niệm “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” không phải do Mỹ đầu tiên đề xuất và sử dụng, nhưng việc Mỹ dùng “Ấn Độ Dương- Thái Bình Dương” thay thế cho “Châu Á – Thái Bình Dương” cho thấy ý đồ mở rộng phạm vi của cấu trúc an ninh do Mỹ dẫn dắt. “Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” là một nội dung quan trọng trong chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ kể từ nhiệm kỳ đầu tiên của Tổng thống Donald Trump, với mục đích duy trì ưu thế bá quyền của Mỹ và kiềm chế sự phát triển của Trung Quốc.
Để thúc đẩy chiến lược này, Mỹ đẩy mạnh chính trị phe nhóm, từ việc củng cố “Liên minh Ngũ nhãn” đến thúc đẩy “Cơ chế Bộ tứ” (QUAD). Từ việc thiết lập “Đối tác An ninh Ba bên” (AUKUS) đến siết chặt các liên minh quân sự song phương, khiến cục diện an ninh vốn có của khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Không chỉ vậy, Mỹ còn cố gắng kết hợp các nhóm đa phương nhỏ thành một hệ thống liên minh rộng lớn và có phân tầng, nhằm xây dựng một trật tự khu vực phù hợp với lợi ích riêng của mình.
Về mặt kinh tế, Mỹ tăng cường quan hệ kinh tế và thương mại với các quốc gia trong khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, tái cấu trúc môi trường khu vực và chuỗi cung ứng, cố gắng buộc các nước trong khu vực “tách rời” khỏi Trung Quốc về kinh tế và công nghệ. Từ đó kiềm chế sức mạnh kinh tế ngày càng tăng của Trung Quốc. Việc triển khai “Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” đánh dấu sự điều chỉnh trong chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc, từ “tiếp xúc” (engagement) chuyển sang “kiềm chế và bao vây” (confinement).
“Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” gây tổn hại đến lợi ích tổng thể và lâu dài của các quốc gia trong khu vực, mang đậm màu sắc “Chiến Tranh Lạnh Mới” và là biểu hiện điển hình của tư duy phân định thắng thua (zero-sum). Khi cạnh tranh giữa các cường quốc trong khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương ngày càng gay gắt, các quốc gia trong khu vực rơi vào thế khó, bị buộc phải chọn phe. Cấu trúc hợp tác khu vực lấy ASEAN làm trung tâm cũng vì thế mà bị ảnh hưởng nặng nề. Khái niệm “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” với xu hướng an ninh hóa quá mức đã làm méo mó cục diện địa chính trị trong khu vực. Các cường quốc lớn trong khu vực cạnh tranh quyết liệt nhằm giành quyền định đoạt và chi phối các chuẩn mực cũng như quy tắc kinh tế – thương mại, khiến trật tự kinh tế khu vực đứng trước nguy cơ bị tái cấu trúc.
Chiến lược này đang cố gắng thay đổi hiện trạng hòa bình và ổn định của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, đi ngược lại với tầm nhìn chung của các quốc gia trong khu vực về việc theo đuổi hòa bình, phát triển, hợp tác và cùng có lợi. Hiện tại, trong bối cảnh xung đột Nga – Ukraine và căng thẳng tại Trung Đông tiếp tục leo thang, nhiều vấn đề nóng tiếp tục thu hút sự chú ý. Trong nội bộ nước Mỹ, tiếng nói yêu cầu chính phủ tập trung vào phát triển kinh tế, các vấn đề dân sinh và xây dựng trong nước ngày càng lớn. Do đó, việc Mỹ đầu tư nguồn lực vào khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương cũng sẽ gặp nhiều hạn chế. Dù vậy, Mỹ vẫn xác định Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh chiến lược, và ý đồ sử dụng “Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” để kiềm chế và chèn ép Trung Quốc sẽ không thay đổi.
Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương nên là vùng đất của hòa bình và phát triển, chứ không phải là một bàn cờ địa chính trị. Là một quốc gia lớn có trách nhiệm, Trung Quốc luôn gắn bó, xây dựng và mang lại lợi ích cho Châu Á – Thái Bình Dương. Trong chính sách ngoại giao khu vực, Trung Quốc kiên trì chính sách láng giềng hữu nghị, hợp tác cùng phát triển, nhấn mạnh tinh thần láng giềng thân thiện, an toàn và thịnh vượng, phát triển quan hệ tốt đẹp với các nước xung quanh.
Trung Quốc kiên trì mở cửa với mức độ cao, ký kết hoặc nâng cấp các hiệp định thương mại tự do với các quốc gia trong khu vực, cùng nhau xây dựng “Vành đai và Con đường” chất lượng cao. Thúc đẩy hình thành một xu hướng hợp tác mới chặt chẽ và thiết thực hơn ở Châu Á – Thái Bình Dương. Đồng thời, Trung Quốc coi trọng việc tăng cường đoàn kết và hợp tác với các nước thuộc “Nam toàn cầu”. Khẳng định rõ ràng rằng Trung Quốc, với tư cách là một nước đang phát triển và là thành viên của “Nam toàn cầu”, luôn đồng hành, chia sẻ vận mệnh với các nước đang phát triển khác.
Về vấn đề an ninh, Trung Quốc luôn tuân thủ chính sách quốc phòng mang tính phòng vệ, kiên trì con đường phát triển hòa bình, tích cực thúc đẩy và thực hiện Sáng kiến An ninh Toàn cầu. Trung Quốc là một lực lượng kiên định trong việc bảo vệ hòa bình thế giới và sự công bằng trong trật tự kinh tế – thương mại quốc tế.
Để duy trì vị thế bá quyền của mình, Mỹ cố tình dùng khái niệm “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” để thay thế “Châu Á – Thái Bình Dương”. Đồng thời thông qua cái gọi là “Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” nhằm kích động sự đối đầu giữa các phe phái, tạo ra căng thẳng trong khu vực. Tuy nhiên, những hành động này không nhận được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Nếu Mỹ tiếp tục bám lấy quan điểm lỗi thời về an ninh kinh tế và mắc kẹt trong ảo tưởng bá quyền, hậu quả cuối cùng chỉ là làm trầm trọng thêm sự đối đầu giữa các phe phái, thúc đẩy chạy đua vũ trang và dẫn đến một cuộc “Chiến tranh Lạnh mới”, gây bất lợi cho sự thịnh vượng và tiến bộ của nền kinh tế toàn cầu.
Về lâu dài, “Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” đi ngược lại nguyện vọng chung của người dân các nước trong khu vực, chắc chắn sẽ khó tránh khỏi thất bại./.
Hết
Biên dịch: Nguyễn Phượng
Nhóm tác giả:
Trình Ân Phú là Giáo sư thỉnh giảng đặc biệt tại Đại học Công nghiệp Tây Bắc, Ủy viên Học bộ Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc, Chủ tịch Hiệp hội Kinh tế Chính trị Thế giới (Trung Quốc). Hướng nghiên cứu: Kinh tế chính trị quốc tế.
Lý Tĩnh là Giảng viên Học viện Chủ nghĩa Mác, Đại học Chính trị và Luật Trung Quốc. Hướng nghiên cứu: Kinh tế chính trị quốc tế.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của các tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của Nghiên cứu Chiến lược. Mọi trao đổi học thuật và các vấn đề khác, quý độc giả có thể liên hệ với ban biên tập qua địa chỉ mail: [email protected]