Năm 2025, quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam sẽ đánh dấu hai ngày kỷ niệm quan trọng: 50 năm kể từ khi kết thúc Chiến tranh Việt Nam và 30 năm kể từ khi bình thường hóa quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam. Những ngày kỷ niệm này cho thấy hành trình dài của Hoa Kỳ và Việt Nam hướng tới mối quan hệ song phương mạnh mẽ. Quan hệ hai nước đạt đỉnh cao mới vào tháng 9/2023 khi Tổng thống Joe Biden và cố Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng nâng quan hệ lên Đối tác chiến lược toàn diện nâng tầm cao nhất trong trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các quốc gia khác trên thế giới. Điều này cho thấy giới lãnh đạo ở Việt Nam luôn ưu tiên mối quan hệ song phương. Điều tương tự với các quan hệ đối tác chiến lược toàn diện mà Việt Nam vừa ký kết với Australia, Ấn Độ, Nhật Bản và Hàn Quốc. Không có lý do gì để nghĩ rằng bất kỳ nhà lãnh đạo tương lai nào ở Việt Nam sẽ tìm cách làm chậm đà phát triển trong các mối quan hệ ngày càng sâu sắc đó.
Hợp tác chiến lược trong bối cảnh chuyển đổi chính trị
Sự ra đi của cố Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng vào ngày 19 tháng 7 sau hơn một thập kỷ cầm quyền đánh dấu một giai đoạn chuyển tiếp chính trị sẽ tiếp tục ít nhất cho đến Đại hội Đảng lần thứ 14 của Việt Nam, dự kiến vào năm 2026. Nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam, bất kể người kế tiếp là ai, sẽ tiếp tục ưu tiên độc lập và quyền tự chủ của Việt Nam trong bối cảnh cạnh tranh quyền lực lớn. Đây luôn là nền tảng của chiến lược Việt Nam. Điều đó có nghĩa là Hà Nội sẽ tiếp tục làm sâu sắc thêm mối quan hệ với Hoa Kỳ trong khi tìm kiếm mối quan hệ ổn định và hiệu quả với Bắc Kinh nếu có thể.
Năm 2015, ông Nguyễn Phú Trọng trở thành Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên từng đến thăm Hoa Kỳ, gặp Tổng thống Barack Obama tại Nhà Trắng. Ông Tô Lâm, hiện vừa là Chủ tịch nước Việt Nam vừa là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, đã đến thăm Washington để gặp gỡ các đối tác Hoa Kỳ vào năm 2019, cũng như hầu hết mọi thủ tướng và chủ tịch nước Việt Nam trong những năm gần đây. Các quan chức Mỹ cũng đã đáp lại sự quan tâm đó, với mỗi tổng thống kể từ Bill Clinton đều đã thăm Hà Nội ít nhất một lần trong thời gian tại nhiệm.
Trong thời kì chính quyền Trump, mối quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể với sự gia tăng đầu tư trực tiếp vào Việt Nam và nhấn mạnh vào hợp tác năng lượng. Năm 2019, hai nước đã ký biên bản ghi nhớ nhằm thiết lập quan hệ đối tác năng lượng toàn diện nhằm thúc đẩy hợp tác thị trường năng lượng. Dưới thời chính quyền Biden, Mỹ đã tăng gấp đôi cam kết với Việt Nam. Bộ trưởng Quốc phòng Lloyd Austin đã đưa Việt Nam trở thành một phần trong chuyến công du đầu tiên tới khu vực vào tháng 7/2021, cùng với đồng minh Philippines và đối tác chiến lược Singapore. Một tháng sau, Kamala Harris trở thành phó tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên đến thăm Việt Nam. Chuyến thăm đã tăng cường các cam kết an ninh và kinh tế song phương, đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành quan hệ đối tác chiến lược toàn diện. Bà Harris trở lại Việt Nam vào tháng 11/2022 để gặp Chủ tịch nước Việt Nam khi đó là ông Nguyễn Xuân Phúc, tái khẳng định quan hệ an ninh, kinh tế song phương và thể hiện cam kết lớn hơn của Hoa Kỳ đối với Việt Nam. Vì vậy, cho dù Donald Trump hay Harris nắm giữ Nhà Trắng vào tháng Giêng năm 2025, Hoa Kỳ sẽ có một tổng thống đã rất am hiểu về mối quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam.
Và bất kể có thay đổi gì ở cấp độ chính trị ở Washington và Hà Nội, hai nước sẽ tiếp tục chia sẻ quan điểm tương tự về an ninh khu vực và lo ngại về Trung Quốc. Điều đó đã, đang và sẽ vẫn là mối bận tâm trong mối quan hệ an ninh của Hoa Kỳ-Việt Nam.
Việt Nam đối mặt với những áp lực trên biển từ Trung Quốc và có biên giới đất liền với nước này, điều mà các quan chức và công chúng rộng rãi coi là một mối đe dọa thường trực. Nhìn từ lịch sử, quan hệ song phương Việt Nam – Trung Quốc đã trải qua không ít thách thức về vấn đề an ninh, quốc phòng. Việt Nam thường xuyên phải đối mặt với những thách thức vùng xám từ hải quân, cảnh sát biển và dân quân Trung Quốc, có thể leo thang bất cứ lúc nào. Việt Nam duy trì gần 50 tiền đồn ở quần đảo Trường Sa để bảo vệ chủ quyền trên biển.
Mặc dù cần phải duy trì quan hệ với Trung Quốc, không có nhà lãnh đạo Việt Nam nào sẽ thỏa hiệp về chủ quyền, kể cả trong các tranh chấp ở Biển Đông. Và như mọi cuộc khảo sát có sẵn về công chúng và giới tri thức trong nước cho thấy, không nơi nào trên trái đất này lại sợ hãi sự bá quyền của Trung Quốc hơn Việt Nam. Đó là lý do tại sao các nhà lãnh đạo Việt Nam coi trọng mối quan hệ chiến lược với Hoa Kỳ và các đồng minh như một đối trọng với mối quan hệ cần thiết của họ với Trung Quốc.
Bất kể có thay đổi gì ở cấp độ chính trị tại Washington và Hà Nội, hai nước sẽ tiếp tục chia sẻ quan điểm tương tự về an ninh khu vực và lo lắng về Trung Quốc. Điều đó đã, đang và sẽ vẫn là sự dằn vặt trong mối quan hệ an ninh của họ.
Các quan sát viên có trụ sở tại Mỹ quên rằng mối quan hệ an ninh với Việt Nam đã phát triển nhanh và xa như thế nào. Washington chỉ dỡ bỏ lệnh cấm vận bán vũ khí cho Việt Nam vào năm 2016. Tuy nhiên, trong suốt thập kỷ qua, hai bên đã thường xuyên tham gia vào các hoạt động trao đổi quốc phòng, bao gồm cả các chuyến thăm của tàu sân bay Mỹ đến Việt Nam. Việt Nam đã là một trong những nước nhận được nhiều sự hỗ trợ an ninh hàng hải từ Mỹ, bao gồm việc bàn giao các tàu tuần tra Metal Shark và quyền truy cập vào nền tảng nhận thức miền biển SeaVision được sử dụng bởi hầu hết các đồng minh và đối tác của Mỹ trong khu vực. Vào cuối năm 2022, Việt Nam đã tổ chức triển lãm quốc phòng quốc tế đầu tiên, và các nhà sản xuất quốc phòng lớn của Mỹ, bao gồm Lockheed Martin và Raytheon, đã có mặt để giới thiệu sản phẩm của họ. Điều này sẽ là điều không thể tưởng tượng nổi ngay cả một thập kỷ trước.
Sự hợp tác này nên được kỳ vọng sẽ sâu sắc hơn, nhưng sẽ vẫn còn những giới hạn về mức độ Hoa Kỳ và Việt Nam có thể làm cùng nhau trong ngắn hạn và họ sẽ liên kết bao nhiêu về các vấn đề chiến lược ngoài Trung Quốc. Ví dụ, Việt Nam duy trì quan hệ chặt chẽ với Nga, và Tổng thống Nga Vladimir Putin đã đến thăm Hà Nội vào tháng Sáu bất chấp sự phản đối của Washington. Việt Nam đã không lên án hành động quân sự của Nga tại Ukraine và đã bỏ phiếu trắng trong tất cả các cuộc bỏ phiếu của Liên Hợp Quốc về vấn đề này. Điều này không có nghĩa là Hà Nội ủng hộ cuộc chiến của Nga. Tuy nhiên, chính phủ Việt Nam không thể mạo hiểm làm mất lòng Nga để làm tổn hại đến an ninh của chính mình. Khi hơn 80% trang thiết bị quân sự của Việt Nam là do Liên Xô hoặc Nga sản xuất.
Hành động quân sự của Nga tại Ukraine khiến điều này trở thành một gánh nặng chiến lược, và Hà Nội nhận thức được điều đó. Do đó, Việt Nam đang đẩy nhanh quá trình đa dạng hóa việc mua sắm quân sự, bao gồm cả việc tìm kiếm các thương vụ từ Hoa Kỳ và các đồng minh. Tuy nhiên, đó sẽ là một quá trình rất dài hạn. Trong thời gian này, Washington sẽ cần chấp nhận rằng Hà Nội không thể mạo hiểm khả năng sẵn sàng quân sự của mình bằng cách công khai lên án Moscow.
Cơ hội phát triển: Quan hệ đối tác kinh tế Hoa Kỳ-Việt Nam
Sự trỗi dậy kinh tế thần tốc của Việt Nam là một câu chuyện thành công đáng chú ý. Từ khi bắt đầu cải cách Đổi mới vào năm 1986, những xu hướng toàn cầu thuận lợi và chính sách khéo léo đã dẫn đến sự phát triển nhanh chóng. Trong gần 40 năm qua, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng gấp 6 lần, từ 600 USD lên 3.700 USD. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 14% năm 2010 xuống còn 4,2% năm 2022. Tầng lớp trung lưu đang phát triển nhanh chóng, môi trường chính trị ổn định và sẵn sàng tham gia các hiệp định kinh tế, bao gồm Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (một phiên bản trước đó mà Hoa Kỳ đã từ bỏ) và Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương vì Thịnh vượng (trong đó Hoa Kỳ là một thành viên), đã khiến Việt Nam trở thành điểm đến đầu tư hấp dẫn cho các công ty nước ngoài.
Quan hệ Kinh tế Hoa Kỳ-Việt Nam
Kể từ khi bình thường hóa quan hệ vào năm 1995, Hoa Kỳ và Việt Nam đã trở thành đối tác kinh tế mạnh mẽ. Hai nước đã ký kết một hiệp định thương mại song phương vào năm 2001 khiến Hoa Kỳ trao cho Việt Nam quy chế tối huệ quốc và ủng hộ việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới. Thương mại đã tăng lên rất nhiều trong hai thập kỷ qua. Thương mại hàng hóa và dịch vụ của Hoa Kỳ với Việt Nam lên tới 114,6 tỷ USD vào năm 2022, một cú nhảy vọt so với 2,9 tỷ USD vào năm 2002. Hoa Kỳ là điểm đến xuất khẩu lớn nhất của hàng hóa Việt Nam, từ dệt may đến giày dép và điện tử. Năm 2022, Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) đã cung cấp cho Việt Nam 142 triệu USD hỗ trợ phát triển chính thức, bao gồm thông qua các dự án giải quyết các di sản của Chiến tranh Việt Nam, như xử lý dioxin.
Vai trò ngày càng tăng của Việt Nam trong nền kinh tế khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương khiến Việt Nam trở thành một đối tác quan trọng đối với Hoa Kỳ. Chính quyền Biden đã coi cam kết với Việt Nam là ưu tiên hàng đầu trong khu vực. Hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư là những nguyên lý chính của quan hệ đối tác chiến lược toàn diện được ký kết vào tháng 9/2023: Chính phủ hai nước tái khẳng định cam kết tạo điều kiện kinh tế thuận lợi; tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở cửa thị trường của mỗi nước cho nước kia, bao gồm cả việc giải quyết các rào cản gia nhập; và hỗ trợ các chính sách kinh tế và thương mại cùng có lợi khác. Việt Nam cũng đang hợp tác với Hoa Kỳ về sản xuất chất bán dẫn theo Quỹ Đổi mới và An ninh Công nghệ Quốc tế do Đạo luật CHIPS và Khoa học năm 2022 thành lập. Tuyên bố chung của ông Biden và ông Trọng thừa nhận yêu cầu của Việt Nam về việc xem xét lại tình trạng kinh tế thị trường. Ngày 2/8/2024, Bộ Thương mại xác định Việt Nam sẽ tiếp tục được xếp vào nhóm kinh tế phi thị trường.
Vai trò ngày càng tăng của Việt Nam trong nền kinh tế khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương khiến Việt Nam trở thành một đối tác quan trọng đối với Hoa Kỳ.
Đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, Việt Nam, hơn bất kỳ nước láng giềng Đông Nam Á nào, đã được hưởng lợi từ việc chuyển hướng đầu tư nước ngoài mới ra khỏi Trung Quốc. Việt Nam đang trở thành điểm đến sản xuất hàng điện tử có giá trị cao, từ điện thoại thông minh đến chất bán dẫn, với thị trường năng lượng tái tạo đang phát triển và một ngành công nghiệp sản xuất và chế biến khoáng sản quan trọng mới nổi.
Sản xuất chất bán dẫn và điện tử
Việt Nam thường được coi là một đối tác “hữu nghị” khả thi của Hoa Kỳ và các đồng minh khi các doanh nghiệp tìm cách “giảm rủi ro” cho lĩnh vực công nghệ cao. Lực lượng lao động có trình độ học vấn cao và môi trường chính trị ổn định đã làm cho nó trở thành một lựa chọn hấp dẫn cho các công ty quan tâm đến việc di dời khỏi Trung Quốc. Việt Nam tham gia vào 16 hiệp định thương mại tự do, nhiều hơn các nước láng giềng, và cung cấp các khoản giảm thuế và miễn thuế cho các dự án công nghệ cao. Việt Nam có chi phí lao động thấp và duy trì một nguồn cung ổn định các sinh viên có kĩ năng. Chương trình Đối tác Cải cách Giáo dục Đại học của USAID đã cung cấp 14,2 triệu USD để thúc đẩy giảng dạy, nghiên cứu và đổi mới sáng tạo tại ba trường đại học quốc gia lớn nhất Việt Nam. Hơn nữa, Mỹ đã cam kết 2 triệu USD cho cho một sáng kiến chung giữa hai nước nhằm phát triển lực lượng lao động trong ngành bán dẫn. Điều này phù hợp chặt chẽ với mục tiêu của Việt Nam là mở rộng lực lượng lao động bán dẫn gấp 10 lần lên 50.000 kỹ sư vào năm 2030.
Thị trường bán dẫn của Việt Nam đã tăng trưởng 7,1% mỗi năm trong giai đoạn 2016-2021 và được định giá 18,2 tỷ USD vào năm 2022. Việt Nam chuyên về quy trình lắp ráp, thử nghiệm và đóng gói (ATP). Đến tháng 2/2023, xuất khẩu chip bán dẫn của nước này sang Mỹ đạt 562 triệu USD, so với 321,7 triệu USD vào năm 2022. Việt Nam đã trở thành nhà xuất khẩu chip bán dẫn lớn thứ ba châu Á sang Mỹ. Vào tháng 4/2023, nó chiếm hơn 10% chip bán dẫn được Mỹ nhập khẩu trong bảy tháng liên tiếp.
Intel, nhà sản xuất chất bán dẫn hàng đầu thế giới, bắt đầu hoạt động tại Việt Nam vào năm 2006. Nhà máy ATP của công ty tại thành phố Hồ Chí Minh là nhà máy lớn nhất trong mạng lưới sản xuất. Amkor Technology, nhà cung cấp dịch vụ đóng gói và thử nghiệm, đã đầu tư 1,6 tỷ USD vào một nhà máy mới ở Bắc Ninh vào năm 2023. Các công ty bán dẫn của Mỹ như Intel, Marvell và GlobalFoundries đã tham gia một phái đoàn kinh nghiệp cùng với chuyến thăm Việt Nam của ông Biden vào tháng 9/2023.
Việt Nam cũng đã trở thành một điểm đến quan trọng cho các nhà sản xuất điện tử đang tìm cách đa dạng hóa và đảm bảo chuỗi cung ứng của họ. Apple đã liên tục chuyển dịch sản xuất sang Việt Nam, đầu tư 15,8 tỷ USD vào Việt Nam kể từ năm 2019. Nó hiện đang vận hành 28 nhà máy tại Việt Nam, chủ yếu ở các tỉnh phía bắc. Việt Nam lắp ráp nhiều loại sản phẩm của Apple và dự kiến sẽ chịu trách nhiệm cho tỷ lệ ngày càng tăng trong tổng sản xuất sản phẩm của Apple vào năm 2025: 20% tổng số iPad và Apple Watch, 5% MacBook và 65% tổng số AirPods.
Năng lượng tái tạo
Việt Nam cam kết đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 tại Hội nghị về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc năm 2021. Về mặt địa lý, Việt Nam có vị trí rất tốt để đạt được mục tiêu này: Đất nước sở hữu tiềm năng to lớn về năng lượng tái tạo. Từ năm 2018 đến năm 2022, sản lượng năng lượng tái tạo đã tăng gấp bốn mươi lần.Việt Nam cần tiếp tục phát triển lưới điện sạch để duy trì và mở rộng năng lực sản xuất của mình.
Năm 2022, Việt Nam đã ký Hiệp định Đối tác Chuyển dịch Năng lượng Công bằng (JETP) với Hoa Kỳ và các quốc gia tài trợ khác, sẽ cung cấp 15,5 tỷ USD tài chính công và tư để hỗ trợ quá trình chuyển đổi năng lượng sạch của đất nước. Kế hoạch huy động nguồn lực JETP của Việt Nam nhằm tạo ra cả khung pháp lý và cơ sở hạ tầng cho quá trình chuyển đổi năng lượng, đồng thời nỗ lực giảm phát thải và cải thiện hệ thống truyền tải điện và lưu trữ năng lượng. USAID hợp tác với Việt Nam trong một loạt các dự án nhằm giảm phát thải và khuyến khích đầu tư vào cơ sở hạ tầng và năng lượng. Với khoản tài trợ 36,2 triệu USD từ năm 2020 đến năm 2025, Chương trình Năng lượng phát thải thấp Việt Nam của USAID đặt mục tiêu hỗ trợ quá trình chuyển đổi năng lượng sạch của Việt Nam. Trong khi đó, chương trình An ninh năng lượng đô thị Việt Nam trị giá 13,9 triệu USD hợp tác với chính phủ Việt Nam để xác định các giải pháp năng lượng sạch cho các thách thức về năng lượng đô thị.
Với sự chấp thuận của chính phủ Việt Nam vào tháng Bảy Nghị định 80 về Hợp đồng mua bán điện trực tiếp, việc bán trực tiếp năng lượng tái tạo cho khách hàng thông qua các đường dây truyền tải tư nhân và lưới điện quốc gia hiện có thể thực hiện được. Các doanh nghiệp nước ngoài sẽ có thể mua năng lượng tái tạo từ các nhà sản xuất tư nhân thay vì dựa vào Điện lực Việt Nam thuộc sở hữu nhà nước để cung cấp năng lượng. Vào tháng một, 15 công ty Hoa Kỳ đã bày tỏ sự quan tâm đến việc đầu tư 8 tỷ đô la vào cơ sở hạ tầng năng lượng sạch của Việt Nam tùy thuộc vào việc áp dụng quy tắc này. Sự chấp thuận của Nghị định 80 và việc nới lỏng quy định về quy trình mua sắm năng lượng tái tạo có thể thu hút nhiều đối tác nước ngoài hơn đang tìm cách thiết lập hoạt động tại Việt Nam.
Khoáng sản quan trọng
Các nguồn khoáng sản quan trọng của Việt Nam cũng có thể đóng vai trò then chốt trong sự gia tăng của nước này trong chuỗi cung ứng toàn cầu có giá trị cao. Khoáng sản đất hiếm rất quan trọng đối với việc sản xuất các thiết bị hiện đại, từ pin xe điện đến màn hình điện thoại thông minh. Việt Nam có trữ lượng khoáng sản đất hiếm lớn thứ hai thế giới, chỉ sau Trung Quốc. Tìm kiếm cơ hội trong bối cảnh định hướng lại chuỗi cung ứng toàn cầu, Việt Nam đang gia tăng khai thác khoáng sản đất hiếm một cách nhanh chóng. Năm 2022, Việt Nam đã sản xuất 4.300 tấn khoáng sản này so với chỉ 400 tấn vào năm 2021. Việt Nam đặt mục tiêu xử lý 2 triệu tấn quặng đất hiếm và 60.000 tấn oxit đất hiếm vào năm 2030. Dưới sự bảo trợ của Quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện Hoa Kỳ-Việt Nam, hai nước đã ký thỏa thuận tăng cường hợp tác kỹ thuật để giúp Việt Nam cải thiện ngành công nghiệp đất hiếm và thu hút đầu tư.
Thách thức
Mặc dù Việt Nam đã nhận được sự chú ý và đầu tư quốc tế đáng kể, nhưng Việt Nam phải đối mặt với những thách thức. Những hạn chế về cơ sở hạ tầng đang khiến nhiều nhà đầu tư quan tâm phải chùn bước, đặc biệt là khi nói đến sự đáp ứng của nước sạch và năng lượng – sự thiếu hụt năng lượng đã dẫn đến những cơn cúp điện bất ngờ ảnh hưởng đến nhiều hoạt động sản xuất của nước ngoài vào năm 2023. Chính phủ quốc gia và địa phương nhận thức rõ sự cần thiết phải nâng cấp cơ sở hạ tầng lớn nhưng đã chậm phê duyệt và phân tán vốn cho các dự án lớn vì chiến dịch chống tham nhũng đang diễn ra, được gọi là “đốt lò”. Từ năm 2021 đến đầu năm 2023, chính phủ Việt Nam đã mở cuộc điều tra hình sự đối với 7.500 cá nhân và truy tố hơn 4.400 người về tội tham nhũng. Đảng Cộng sản Việt Nam đã kỷ luật hàng chục ngàn người, bao gồm các quan chức cấp cao và tám thành viên của Bộ Chính trị, cơ quan ra quyết định cao nhất của đất nước. Từ đầu năm 2023 đến giữa năm 2024, hai Chủ tịch Quốc hội và Thường trực Ban Bí thư (quan chức cao cấp thứ năm) đã bị cách chức. Quy mô của chiến dịch chống tham nhũng đã tạo ra sự tê liệt hành chính, với các quan chức do dự trong việc đưa ra bất kỳ quyết định táo bạo nào hoặc phê duyệt các dự án lớn vì sợ bị truy tố trong tương lai. Do đó, nhiều nhà đầu tư đang áp dụng cách tiếp cận chờ xem cho đến khi họ có thể đánh giá tốt hơn về tương lai của các khoản đầu tư của mình.
Sự ra đi của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có thể dẫn đến việc giảm dần chiến dịch chống tham nhũng, hoặc trước hoặc sau Đại hội Đảng toàn quốc 2026 nhưng điều đó vẫn chưa rõ ràng. Các vụ bắt giữ quy mô lớn có khả năng sẽ tiếp tục trong một thời gian bởi những vụ việc đã được điều tra trước đó. Vào ngày 22 tháng 7, cảnh sát đã bắt giữ năm quan chức cấp cao, bao gồm một cựu thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, vì vi phạm quy định khai thác khoáng sản. Dù chiến dịch chống tham nhũng diễn ra như thế nào, bầu không khí thận trọng trong bộ máy hành chính sẽ không dễ dàng thay đổi ngay lập tức, vì vậy việc giải ngân chậm trễ của các quỹ chính phủ và sự thiếu hụt cơ sở hạ tầng sẽ tiếp tục cản trở tăng trưởng trong một thời gian.
Hơn nữa, khả năng có một chính quyền Trump thứ hai ở Hoa Kỳ có thể làm phức tạp tiến trình hợp tác kinh tế giữa Hoa Kỳ và Việt Nam trong tương lai. Một chính quyền Trump sẽ có khả năng phàn nàn một lần nữa về thâm hụt thương mại ngày càng tăng của Hoa Kỳ và có thể tìm cách giải quyết vấn đề này thông qua các biện pháp trừng phạt, giống như lần đầu tiên với các cuộc điều tra về cáo buộc thao túng tiền tệ và hành vi thương mại không công bằng. Với lợi ích thương mại lớn của Hoa Kỳ tại Việt Nam, một chính quyền Trump thứ hai sẽ khó có thể đảo ngược xu hướng hợp tác kinh tế ngày càng tăng, nhưng chắc chắn có thể làm chậm đà phát triển trong những năm gần đây. Bất chấp những thách thức này, Việt Nam có khả năng sẽ tiếp tục duy trì tăng trưởng GDP bền vững trong ba năm tới.
Vượt qua cuộc chiến: thắt chặt tình hữu nghị Giữa Hoa Kỳ và Việt Nam
Với những ngày kỷ niệm kết thúc Chiến tranh Việt Nam và bình thường hóa ngoại giao sắp diễn ra, và quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, Hoa Kỳ và Việt Nam đã tăng cường nỗ lực để củng cố quan hệ nhân dân. Quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện Hoa Kỳ-Việt Nam cần bao gồm nỗ lực gấp đôi để giải quyết các di sản lịch sử, làm sâu sắc thêm mối liên kết giữa Việt Nam và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, và mở rộng trao đổi giáo dục. Tất cả ba lĩnh vực này đều quan trọng trong việc củng cố quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, tạo ra cơ hội cho người dân hai nước không chỉ hiểu nhau mà còn hiểu về lịch sử phức tạp của cuộc chiến tranh và sự hòa giải giữa họ.
Quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện Hoa Kỳ-Việt Nam cần nỗ lực gấp đôi để giải quyết các di sản lịch sử, làm sâu sắc thêm mối liên kết giữa Việt Nam và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, và mở rộng trao đổi giáo dục.
Di sản lịch sử
Hoa Kỳ và Việt Nam đã ưu tiên giải quyết các di sản của chiến tranh. Tháng 4/2023, USAID công bố hợp tác với Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh (WRM) tại Thành phố Hồ Chí Minh. Quan hệ đối tác liên quan đến việc thêm một cuộc triển lãm vào WRM để giới thiệu những nỗ lực của cả hai nước để khắc phục hậu quả của Chiến tranh Việt Nam. Triển lãm lịch sử này đánh dấu lần đầu tiên chính phủ Hoa Kỳ có sự tham gia trực tiếp vào cách thức cuộc chiến được tưởng niệm tại Việt Nam. WRM trước đây đã đối mặt với nhiều chỉ trích vì thiếu một góc nhìn cân bằng, mô tả lính Mỹ như những tội phạm trong khi phớt lờ những tội ác do lực lượng miền Bắc Việt Nam thực hiện. Triển lãm hợp tác mới này thể hiện cam kết chung của Hoa Kỳ và Việt Nam trong việc giải quyết các di sản chiến tranh dựa trên sự hiểu biết lẫn nhau và sự thừa nhận chân thành về lịch sử. Triển lãm dự kiến sẽ khai mạc vào năm 2025, đúng thời điểm cho cả hai ngày kỷ niệm.
Mặc dù cam kết mạnh mẽ, Hoa Kỳ vẫn còn nhiều việc phải làm để giải quyết các di sản của Chiến tranh Việt Nam. Tính đến năm 2022, hài cốt của 1.244 quân nhân Mỹ thiệt mạng hoặc mất tích trong chiến đấu vẫn chưa được tìm thấy, với 470 người trong số đó được tuyên bố là “không thể quy tập”. Tiến độ quy tập hài cốt đã chậm lại, do những rào cản về hậu cần và khoa học liên quan. Năm 2023, chỉ có bốn hài cốt quân nhân Mỹ được quy tập thành công.
Năm 2021, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Austin và Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phan Văn Giang đã ký một biên bản ghi nhớ, trong đó Hoa Kỳ cam kết hỗ trợ Việt Nam trong việc xác định vị trí, xác định nhận diện và thu hồi hài cốt của các lực lượng Việt Nam. Bộ Quốc phòng dự định tập trung vào các nỗ lực di dời bằng cách hợp tác với Viện Hòa bình Hoa Kỳ, USAID, các cơ sở học thuật của Hoa Kỳ và Văn phòng Tùy viên Quốc phòng tại Hà Nội. Mặc dù các kế hoạch thực hiện chi tiết vẫn chưa được thiết lập, Hoa Kỳ dự định tập trung vào các lĩnh vực sau để hỗ trợ nỗ lực xác minh của Việt Nam: nghiên cứu lưu trữ; số hóa tài liệu; xây dựng năng lực kế toán công nghệ; truyền thông; trao đổi giữa cựu chiến binh, giới học thuật, nhà hoạch định chính sách và những người làm việc ở cấp kỹ thuật; và hỗ trợ phân tích DNA.
Bất chấp những nỗ lực quy tập của cả lực lượng Hoa Kỳ và Việt Nam, các quân nhân thiệt mạng liên quan đến chế độ Việt Nam Cộng hòa (được hậu thuẫn bởi Hoa Kỳ) vẫn chưa được công nhận hoặc giải quyết chính thức. Tuy vậy, các nỗ lực này trở thành một bước quan trọng trong việc củng cố quan hệ song phương.
Hoa Kỳ cũng tiếp tục hợp tác với Việt Nam để rà phá bom mìn chưa nổ (UXO) và khắc phục đất bị nhiễm chất độc da cam, một loại thuốc diệt cỏ được sử dụng trong chiến tranh có chứa hàm lượng cao chất dioxin hóa học chết người. USAID đã hoàn thành dự án kéo dài nhiều năm để xử lý đất tại sân bay Đà Nẵng; dự án đã được khởi động dưới thời chính quyền Obama, và cơ quan này hiện đang làm việc để làm sạch Biên Hòa, một căn cứ không quân cũ của Hoa Kỳ có nồng độ chất độc da cam cao. Vào tháng 12/2022, USAID đã trao hợp đồng phát triển cơ sở xử lý hơn 100.000 mét khối đất bị ô nhiễm tại cơ sở. Dự án dự kiến sẽ tốn 450 triệu USD và hoàn thành vào năm 2030.
Trong khi các nỗ lực khắc phục môi trường đang đạt được tiến bộ đáng kể, cần phải làm nhiều hơn nữa để điều trị cho các nạn nhân phơi nhiễm chất độc da cam. Chính phủ Hoa Kỳ cung cấp dịch vụ chăm sóc và bồi thường cho các cựu chiến binh Hoa Kỳ bị phơi nhiễm trong chiến tranh, nhưng cần phải làm nhiều hơn nữa trong hợp tác với Hà Nội để điều trị cho các nạn nhân Việt Nam. Chính phủ Hoa Kỳ và Việt Nam không thống nhất về việc ai đủ điều kiện bị ảnh hưởng bởi phơi nhiễm chất độc da cam. Đạt được một thỏa thuận như vậy và tăng cường hỗ trợ cho các nạn nhân phù hợp sẽ đánh dấu một bước quan trọng trong việc hòa giải.
Hoa Kỳ tiếp tục hỗ trợ các nỗ lực rà phá bom mìn tại Việt Nam, đầu tư hơn 206 triệu USD tính đến năm 2022 và gỡ bỏ 5.979 mìn và vật nổ chưa phát nổ (UXO) từ 1.247.425 mét vuông (308 mẫu Anh) đất tính đến tháng 7 năm 2021. Năm 2022, Bộ Ngoại giao đã khởi xướng hỗ trợ công nghệ cho Trung tâm Hành động bom mìn quốc gia Việt Nam và hai trung tâm hoạt động ứng phó bom mìn cấp tỉnh để phát triển khả năng tự thực hiện rà phá bom mìn tại Việt Nam một cách độc lập. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cũng đã hỗ trợ giáo dục về nguy cơ bom mìn tại các trường tiểu học và trung học ở các tỉnh bị ảnh hưởng của Việt Nam, bao gồm Đà Nẵng, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Loại bỏ tất cả bom mìn ra khỏi chiến tranh là một nhiệm vụ khó khăn, với hàng triệu quả mìn vẫn chưa được phát hiện. Chính phủ Việt Nam ước tính rằng, tính đến năm 2022, mìn và UXO đã gây ra hơn 40.000 người chết và 60.000 người bị thương kể từ khi chiến tranh kết thúc. Một tổ chức phi chính phủ (NGO) đáng chú ý đang giải quyết thách thức này là Dự án RENEW, một quan hệ đối tác được thành lập vào năm 2001 giữa chính quyền tỉnh Quảng Trị và các tổ chức phi chính phủ quốc tế. Trong hơn 20 năm, RENEW đã loại bỏ thành công 815.952 vật nổ khỏi Việt Nam, chưa bằng một nửa so với ước tính còn lại. Mặc dù không thể loại bỏ tất cả UXO, nhưng những nỗ lực liên tục là rất quan trọng trong việc giảm rủi ro an toàn trên khắp Việt Nam.
Cộng đồng người Việt hải ngoại
Vào cuối cuộc chiến năm 1975, Hoa Kỳ đã sơ tán khoảng 125.000 công dân Việt Nam, nhiều người trong số họ có quan hệ với quân đội Hoa Kỳ. Cuộc di tản đánh dấu làn sóng đầu tiên của người tị nạn Việt Nam nhập cư vào Hoa Kỳ. Một làn sóng thứ hai bắt đầu vào năm 1978 và kéo dài đến những năm 1980, khi nhiều người Việt Nam chạy trốn bằng thuyền đến các quốc gia Đông Nam Á láng giềng và cuối cùng được tái định cư ở các nước thứ ba. Ngày nay, khoảng 1,3 triệu người nhập cư Việt Nam cư trú tại Hoa Kỳ, và tổng dân số người Mỹ gốc Việt là hơn 2 triệu người.
Người Mỹ gốc Việt đóng một vai trò quan trọng trong quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam. Hầu hết người Mỹ gốc Việt thế hệ thứ hai chưa bao giờ đến Việt Nam và nhiều người nhập cư Việt Nam và con cái của họ vẫn giữ lập trường chống Cộng sản quyết liệt. Vai trò của cộng đồng này trong việc làm sâu sắc hơn mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đã có nhiều mâu thuẫn, khi nhiều người Mỹ gốc Việt háo hức tạo dựng các mối quan hệ văn hóa và thương mại mới, nhưng những người khác kêu gọi chính phủ Hoa Kỳ áp dụng một lập trường phê phán hơn đối với Hà Nội.
Chính phủ Việt Nam gọi người Mỹ gốc Việt là Việt Kiều, hay “người Việt hải ngoại”. Sau chiến tranh, thuật ngữ này ban đầu được coi là mang tính xúc phạm. Nhưng mối quan hệ của Việt Nam với cộng đồng hải ngoại đã phát triển tích cực kể từ khi bình thường hóa quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam. Hà Nội đã nỗ lực để gắn kết cộng đồng người Mỹ gốc Việt, xác định đó là nguồn cảm hứng cho người Việt Nam trong nước. Sự tách biệt về văn hóa và chính trị mà nhiều người Mỹ gốc Việt cảm thấy đối với Hà Nội sẽ không biến mất dễ dàng trong thời gian ngắn, nhưng nó đang dần thay đổi tích cực. Để tiếp tục các nỗ lực hòa giải, chính phủ Hoa Kỳ và Việt Nam cần tiếp tục hỗ trợ các chương trình cho phép người Mỹ gốc Việt trở về Việt Nam để trao đổi văn hóa và giáo dục. Nhưng họ cũng phải thừa nhận và giải quyết những tổn thương mà người Việt Nam phải chịu ở cả hai phía của cuộc chiến.
Trao đổi giáo dục
Khoảng 30.000 sinh viên Việt Nam hiện đang học tập tại Hoa Kỳ, nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác ở Đông Nam Á. Chính phủ Hoa Kỳ đang khuyến khích các cơ sở giáo dục chấp nhận nhiều sinh viên Việt Nam hơn trong những năm tới. Việt Nam cũng hoan nghênh các trường đại học Hoa Kỳ phát triển quan hệ đối tác với các tổ chức Việt Nam và thậm chí mở các cơ sở tại Việt Nam. Đại học Arizona đáng chú ý cung cấp một chương trình hợp tác với Đại học Luật Hà Nội (HLU) để lấy cả bằng cử nhân luật từ HLU và bằng cử nhân luật từ Arizona chỉ trong bốn năm. Trong khi đó, Đại học Troy hiện đang hợp tác với Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Bách khoa Hà Nội và Đại học Công nghệ Sài Gòn để cung cấp nhiều chương trình đại học tại Việt Nam.
Quỹ Giáo dục Việt Nam (VEF) của Hoa Kỳ đã đóng một vai trò quan trọng trong việc bình thường hóa quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam thông qua trao đổi giáo dục. Được Quốc hội thành lập vào năm 1999, VEF là một chương trình trao đổi giáo dục hàng đầu được tạo ra để nâng cao năng lực khoa học và công nghệ của Việt Nam. VEF, hoạt động tại Việt Nam từ năm 2003 đến năm 2016, đã cho phép các học giả Việt Nam có thành tích học tập xuất sắc được học tập tại Hoa Kỳ. Trong quá trình hoạt động, VEF đã đưa 600 công dân Việt Nam theo học các chương trình sau đại học tại Hoa Kỳ và hơn 40 giáo sư Hoa Kỳ từ các trường đại học Hoa Kỳ đến giảng dạy tại các trường đại học Việt Nam. Những bước đi đầu tiên của VEF hướng tới bình thường hóa trao đổi giáo dục đã truyền cảm hứng cho các chương trình mới nổi như Chương trình Fulbright tiếp tục khuyến khích trao đổi giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, với hai chương trình phát triển mối quan hệ hợp tác mạnh mẽ cho đến khi VEF chính thức đóng cửa vào năm 2018.
Hoa Kỳ, thông qua Chương trình Fulbright, mang đến cho các chuyên gia Hoa Kỳ cơ hội học tập, giảng dạy hoặc nghiên cứu tại Việt Nam trong khi tìm hiểu về ngôn ngữ và văn hóa của Việt Nam. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright xuất phát từ sự hợp tác năm 1994 giữa Chương trình Việt Nam của Đại học Harvard và Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Chương trình hiện là một phần của Đại học Fulbright Việt Nam, trường đại học phi lợi nhuận độc lập đầu tiên của Việt Nam. Đại học Fulbright Việt Nam đã được khen ngợi trong lễ công bố quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện Hoa Kỳ-Việt Nam vì “vai trò ngày càng tăng như một trung tâm khu vực về đào tạo chính sách công”, cũng như công nhận tầm quan trọng của việc đầu tư vào nguồn nhân lực “như một nguồn lực quan trọng cho sự thịnh vượng, an ninh, ổn định và phát triển trong tương lai”.
Năm 2022, Tổ chức Hòa bình đã cử đoàn tình nguyện viên đầu tiên đến Hà Nội sau 18 năm đàm phán giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Tổ chức Hòa bình đã đấu tranh cho “hòa bình và hữu nghị thế giới thông qua phát triển dựa vào cộng đồng và hiểu biết liên văn hóa” kể từ năm 1961. Được thành lập trên trường quốc tế và là một dấu ấn cho mối quan hệ song phương mạnh mẽ, việc thành lập Tổ chức Hòa bình (Peace Corps) tại Việt Nam đánh dấu một chiến thắng lịch sử cho quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam. Hoa Kỳ và Việt Nam đã đàm phán thỏa thuận song phương cho Tổ chức Hòa bình từ năm 2004, ký một thỏa thuận chính thức vào năm 2016 dưới thời chính quyền Obama. Các thỏa thuận thực hiện đã được hoàn tất vào đầu năm 2021, chính thức tuyển dụng nhân viên vào cuối năm đó. Với chương trình của Tổ chức Hòa bình tại Việt Nam được thiết lập, Hoa Kỳ mang đến cho công dân của mình nhiều cơ hội hơn để tham gia vào các cơ hội trao đổi văn hóa và giáo dục, đây là những bước quan trọng hướng tới việc làm sâu sắc thêm sự hiểu biết lẫn nhau giữa cả hai quốc gia.
Một tương lai tươi sáng cho quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam
Mối quan hệ song phương giữa Hoa Kỳ và Việt Nam chỉ mới bắt đầu thịnh vượng. Mở rộng quan hệ giữa chính phủ với chính phủ đã tạo ra mối liên kết thể chế sâu sắc hơn giữa hai nước. Tình hữu nghị song phương giữa Hoa Kỳ và Việt Nam có thể chịu đựng những thay đổi trong các chính quyền ở mỗi quốc gia, kể cả môi trường chính trị nội bộ của họ. Sự tham gia kinh tế tại Việt Nam đang tăng trưởng đều đặn trong bối cảnh các công ty phương Tây giảm rủi ro từ Trung Quốc. Trong lĩnh vực sản xuất chất bán dẫn, lĩnh vực năng lượng tái tạo và lĩnh vực khoáng sản quan trọng, trong số những lĩnh vực khác, có những cơ hội đáng kể cho quan hệ đối tác kinh tế Hoa Kỳ-Việt Nam.
Trong khi đó, Hoa Kỳ và Việt Nam tiếp tục nghiêm túc thừa nhận di sản chiến tranh lịch sử của họ, mở đường cho sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai quốc gia. Mối quan hệ song phương được tăng cường của họ mở ra cơ hội giáo dục cho người dân hai nước, bao gồm cả người Mỹ gốc Việt, đóng một vai trò trong tình hữu nghị phức tạp và sâu sắc của Hoa Kỳ và Việt Nam. Và với những ngày kỷ niệm quan trọng của cả việc kết thúc Chiến tranh Việt Nam và bình thường hóa ngoại giao đang đến gần, Hoa Kỳ và Việt Nam sẽ tiếp tục đà phát triển trong mối quan hệ đang phát triển của họ.
Biên dịch: Hoàng Bích Phượng
Tác giả: Lauren Mai là điều phối viên chương trình và trợ lý nghiên cứu của Chương trình Đông Nam Á tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) ở Washington, D.C. Gregory B. Poling là thành viên cao cấp và giám đốc Chương trình Đông Nam Á và Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á tại CSIS. Japhet Quitzon là cộng tác viên nghiên cứu của Chương trình Đông Nam Á tại CSIS.
Bài viết thể hiện quan điểm của một người Mỹ gốc Việt, đứng trên lập trường lợi ích của Hoa Kỳ, hoàn toàn không phản ánh quan điểm của Nghiên cứu Chiến lược. Mọi trao đổi học thuật và các vấn đề khác, quý độc giả có thể liên hệ với ban biên tập qua địa chỉ mail: [email protected]