Năm 2024, kinh tế thế giới tiếp tục có những tín hiệu phục hồi trong bối cảnh khó khăn và đạt được những kết quả tích cực trong việc khắc phục lạm phát, duy trì tăng trưởng, cải thiện thương mại. Tình hình phát triển tổng thể có xu hướng ổn định, nhưng nhìn chung, các vấn đề cấu trúc của nền kinh tế toàn cầu vẫn chưa được giải quyết, với sự mất cân bằng trong tăng trưởng và áp lực nợ gia tăng. Với việc Trump tái đắc cử Tổng thống Mỹ, nền kinh tế toàn cầu phải đối mặt với sự gia tăng tác động của sự không chắc chắn mang tên “Trump 2.0”.
Kinh tế thế giới vào năm 2024 cơ bản vẫn ổn định
Năm 2024, kinh tế thế giới nhìn chung có sự ổn định tương đối. Có thể gói gọn một vài đặc điểm gồm “tăng trưởng thấp, lạm phát trung bình, nợ cao và thị trường chứng khoán mạnh”.
Đầu tiên, nền kinh tế toàn cầu vẫn đang trong tình trạng tăng trưởng thấp. Theo dự báo của Quỹ Tiền tệ Quốc tế, nền kinh tế toàn cầu dự kiến sẽ tăng trưởng với tốc độ 3,2% vào năm 2024, về cơ bản giống như năm 2023. Ở góc độ tích cực, điều này cho thấy nền kinh tế toàn cầu đã hấp thụ tốt hơn các chính sách kinh tế bất thường do dịch bệnh đưa ra trong một năm và có thể đảm bảo tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức tương đối ổn định. Nhưng nhìn từ góc độ tiêu cực, điều này cũng cho thấy động lực kinh tế toàn cầu vẫn chưa đủ và chưa thể tạo ra sự tăng trưởng mạnh mẽ hơn.
Mặc dù nền kinh tế thế giới nhìn chung vẫn ổn định nhưng có xu hướng phân hóa nội tại rõ ràng. Đánh giá từ hoạt động của ba nền kinh tế lớn là Trung Quốc, Hoa Kỳ và Châu Âu, Trung Quốc và Hoa Kỳ hoạt động tương đối tốt. Tuy nhiên, nền kinh tế Châu Âu bộc lộ những vấn đề về tăng trưởng yếu và thiếu đổi mới, đã trở thành những yếu tố bất lợi hạn chế tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Vào năm 2024, tốc độ tăng trưởng kinh tế của châu Âu ở mức dưới 1%, tụt hậu đáng kể so với Trung Quốc và Mỹ. Nếu nhìn vào tốc độ tăng trưởng kinh tế tương ứng, tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế mới nổi vẫn cao hơn nhiều so với các nền kinh tế phát triển. Với tư cách là đại diện của các nền kinh tế mới nổi, Trung Quốc và Ấn Độ ở châu Á tiếp tục có tốc độ tăng trưởng mới vượt trội và tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước này vẫn duy trì ở mức ấn tượng. Trong các nền kinh tế được cho là phát triển, Đức và Nhật Bản hoạt động kém hiệu quả. Theo dự báo, kinh tế Đức sẽ tăng trưởng ở mức 0 ở năm 2024, trong khi Nhật Bản chỉ tăng trưởng khoảng 0,3%.
Lạm phát toàn cầu tiếp tục giảm và các ngân hàng trung ương ở các nền kinh tế lớn đã cắt giảm lãi suất. Các nền kinh tế lớn đã đạt được tiến bộ đáng kể trong việc kiểm soát lạm phát vào năm 2024, với tỷ lệ lạm phát chung giảm từ mức trung bình 6,7% năm 2023 xuống còn 5,8% vào năm 2024. Chỉ số giá tiêu dùng của Hoa Kỳ có dấu hiệu giảm và vẫn tương đối thấp kể từ tháng 7/2024. Nhìn chung, lạm phát ở EU cũng giảm, ổn định dưới 2,5%. Khi áp lực lạm phát giảm, các nền kinh tế lớn có thể duy trì tăng trưởng kinh tế thông qua việc cắt giảm lãi suất. Cục Dự trữ Liên bang đã kết thúc chu kỳ tăng lãi suất bắt đầu từ năm 2022 và bắt đầu quá trình cắt giảm lãi suất vào tháng 9 năm 2024. Đến cuối năm 2024, lãi suất quỹ liên bang Hoa Kỳ giảm từ 5,33% xuống 4,33%, giảm 100 điểm cơ bản. Lãi suất cho vay kỳ hạn một năm của Trung Quốc cũng đã giảm từ 3,45% xuống 3,1%. Ngân hàng Trung ương Châu Âu đã cắt giảm lãi suất bốn lần vào năm 2024.
Nợ toàn cầu tiếp tục tăng. Nợ toàn cầu vượt quá 320 nghìn tỷ USD. Nhìn vào cơ cấu cụ thể của nợ, tốc độ tăng nợ hộ gia đình và doanh nghiệp đã chậm lại, trong khi nợ công Chính phủ tăng nhanh. Theo dữ liệu từ Viện Tài chính Quốc tế, nợ công chính phủ toàn cầu sẽ vượt 100 nghìn tỷ USD vào năm 2024, chiếm hơn 90% GDP toàn cầu. Điều này chủ yếu là do chính phủ của nhiều quốc gia đã trở nên tích cực hơn trong các chính sách tài khóa để duy trì các khoản chi tiêu công khác nhau và kích thích tăng trưởng kinh tế, họ đã tăng thêm khoản vay và thâm hụt ngày càng gia tăng. Ví dụ, nợ của chính phủ liên bang Hoa Kỳ tăng gần 2 nghìn tỷ USD vào năm 2024.
Thị trường chứng khoán toàn cầu hoạt động mạnh mẽ. So với GDP, thương mại thế giới, đầu tư toàn cầu và các chỉ số khác, thị trường chứng khoán toàn cầu hoạt động rất xuất sắc vào năm 2024, với tất cả các thị trường chứng khoán lớn đều ghi nhận mức tăng lớn. Thị trường chứng khoán Mỹ tiếp tục đạt mức cao kỷ lục và hiệu ứng tài sản là rõ ràng. Chỉ số công nghiệp trung bình Dow Jones tăng hơn 4.000 điểm, tương đương khoảng 14%, trong khi S&P 500 và Nasdaq tăng lần lượt khoảng 25% và 30%. Ở châu Âu, ngay cả khi hiệu quả kinh tế tổng thể kém, chỉ số DAX của Đức, chỉ số FTSE 100 của Anh và chỉ số FTSE MIB của Ý đều tăng đáng kể. Tại châu Á, chỉ số SSE Composite của Trung Quốc tăng hơn 12,67%, chỉ số Nikkei 225 và chỉ số FTSE Singapore Straits Index đều tăng hơn 16%, chỉ số SENSEX30 của Ấn Độ cũng tăng gần 10%. Các công ty công nghệ cao ở nhiều nền kinh tế khác nhau đóng vai trò động lực chính trên thị trường chứng khoán toàn cầu, phản ánh kỳ vọng của thị trường vốn về những đột phá lớn trong công nghệ toàn cầu với trí tuệ nhân tạo là cốt lõi.
Những thách thức đối với sự phát triển kinh tế thế giới
Mặc dù nền kinh tế thế giới nhìn chung đang ổn định nhưng vẫn phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng cần được quan tâm.
Thứ nhất, kinh tế toàn cầu tăng trưởng ở tốc độ thấp trong thời gian dài và khó có sự đột phá đi lên. Tăng trưởng kinh tế thế giới dao động ở mức trung bình đến thấp trong những năm gần đây, cụ thể là khoảng 3% – 3,5%, trước đây có thể được coi là giới hạn tăng trưởng thấp, giờ đây đã dần trở thành giới hạn trên của tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Nguy cơ của tăng trưởng tốc độ thấp trong dài hạn là nếu không cẩn thận, nền kinh tế toàn cầu có thể chững lại, nếu gặp rủi ro lớn sẽ rơi vào suy thoái.
Nguyên nhân chính khiến nền kinh tế toàn cầu tăng trưởng thấp là do năng suất lao động không được cải thiện đáng kể. Đây là một vấn đề cơ cấu phổ biến trên toàn thế giới. Việc giảm dân số trong độ tuổi lao động, trình độ học vấn đạt đỉnh cơ bản và sự gián đoạn liên tục của các chuỗi giá trị toàn cầu đều là những yếu tố quan trọng cản trở việc cải thiện hiệu quả năng suất lao động. Để thay đổi tình trạng này, có thể cần phải đổi mới công nghệ. Việc ứng dụng rộng rãi trí tuệ nhân tạo trong công nghiệp và kinh doanh có thể thay đổi tình trạng tỷ lệ lao động trì trệ, từ đó thúc đẩy quá trình chuyển đổi nền kinh tế toàn cầu từ tăng trưởng thấp sang tăng trưởng trung bình đến cao.
Thứ hai, toàn cầu hóa tiếp tục đối mặt với áp lực. Thương mại hàng hóa toàn cầu tăng khoảng 2,7% vào năm 2024, thấp hơn tốc độ tăng trưởng GDP toàn cầu. Toàn cầu hóa vẫn đang phải đối mặt với một làn sóng phản kháng, các chủ nghĩa bảo hộ thương mại và đầu tư khác nhau đang lần lượt xuất hiện. Thách thức lớn nhất đối với toàn cầu hóa là sự rút lui liên tục của Hoa Kỳ. Việc “nội địa hóa” nền kinh tế về cơ bản đã trở thành sự đồng thuận trong nước ở Hoa Kỳ. Tác động của Hoa Kỳ đối với quá trình toàn cầu hóa ban đầu không chỉ ở định hướng chính sách “nội địa hóa” mà còn là việc tấn công các nước khác với tư cách là đối thủ kinh tế. Hoa Kỳ cho rằng mình là kẻ thua cuộc trong quá trình toàn cầu hóa ban đầu và các nước khác, đặc biệt là Trung Quốc, là những người được hưởng lợi từ toàn cầu hóa. Do đó, Hoa Kỳ tiếp tục bảo vệ và đàn áp Trung Quốc trong nhiều lĩnh vực kinh tế, đàn áp vị thế của Trung Quốc trong hệ thống kinh tế toàn cầu, đồng thời tạo ra một vòng tròn kinh tế độc quyền hạn chế sự tham gia của Trung Quốc, khiến nền kinh tế toàn cầu trở thành một hệ thống phân mảnh và đối kháng. Là hai nền kinh tế hàng đầu thế giới, Trung Quốc và Hoa Kỳ có quan hệ kinh tế và thương mại song phương bình thường, coi đó là nền tảng của toàn cầu hóa. Hợp tác kinh tế và thương mại Trung-Mỹ sẽ thúc đẩy toàn cầu hóa, trong khi đối đầu kinh tế và thương mại Trung-Mỹ sẽ khiến toàn cầu hóa thoái trào. Hoa Kỳ kiên trì chính sách đối đầu với Trung Quốc, làm chia rẽ sự thống nhất của toàn cầu hóa và làm xao lãng động lực phát triển toàn cầu hóa.
Thứ ba, chứng khoán hóa kinh tế ngày càng được tăng cường. Đất nước này nhìn nhận nền kinh tế nhiều hơn từ góc độ an ninh và phát triển kinh tế phải nhường chỗ cho nhu cầu an ninh quốc gia. Dòng chảy toàn cầu của các yếu tố kinh tế phải đối mặt với những trở ngại rõ ràng và vô hình hơn, khiến không thể ưu tiên hiệu quả. Vì lợi ích an ninh quốc gia, nhiều quốc gia đã tăng cường đáng kể mức độ dư thừa an ninh trong hệ thống kinh tế của họ, dẫn đến việc phân bổ nguồn lực không hiệu quả và hoạt động kinh tế kém hiệu quả. Từ góc độ an ninh, một khoản đầu tư tài chính bổ sung lớn có thể hợp lý, nhưng từ góc độ kinh tế, nó có thể gây lãng phí tài nguyên. Trước nhu cầu bảo mật, các loại mô hình “+1”, mô hình “dự phòng”, mô hình “cục bộ” và thậm chí cả mô hình “không kết nối” tiếp tục xuất hiện, làm giảm hiệu quả kinh tế. Chưa kể sự xuất hiện liên tục của các biện pháp kiểm soát xuất khẩu, hạn chế đầu tư, trừng phạt kinh tế, v.v. trong lĩnh vực chính sách kinh tế, càng làm tăng thêm khó khăn cho dòng chảy tự do của các yếu tố kinh tế. Vấn đề ở chỗ, mặc dù an ninh kinh tế có thể đã trở thành một ưu tiên nhất định trong khái niệm quản lý của các chính phủ, nhưng trong thực tế triển khai chính sách, đã gặp phải quá nhiều khó khăn. Ví dụ, sau cuộc khủng hoảng Ukraine, quan hệ kinh tế và thương mại giữa châu Âu và Nga đã bị an ninh hóa hoàn toàn, châu Âu khó có thể tiếp tục giao thương và đầu tư với Nga, châu Âu “rời xa Nga” đã phá vỡ mô hình cũ, nhưng không thể thiết lập một mô hình kinh tế mới, hoặc nói cách khác, mô hình kinh tế mới vẫn đang trong quá trình khám phá, điều này phần nào giải thích tại sao kinh tế châu Âu năm 2024 lại có hiệu suất cực kỳ hạn chế.
Đối mặt với những tác động của Trump 2.0
Có một số biến số nhất định liệu sự ổn định của nền kinh tế toàn cầu vào năm 2024 có tiếp tục diễn ra vào năm 2025 hay không. Việc Trump tái đắc cử đã mang lại tác động lớn hơn cho sự phát triển kinh tế toàn cầu. Đánh giá từ định hướng chính sách của Trump trong nhiệm kỳ đầu tiên, “Nước Mỹ trên hết” là nền tảng cho chính sách của ông, và chủ nghĩa bảo hộ là đặc điểm nổi bật của ông. Hiện tại, cho dù là dựa trên sở thích lâu dài của Trump về việc sử dụng thuế quan, hay thành phần đội ngũ thương mại mà ông đã chỉ định, chủ nghĩa ưu tiên Mỹ và chủ nghĩa bảo hộ kinh tế trong nhiệm kỳ thứ hai của Trump sẽ được củng cố mạnh mẽ hơn.
Trong lĩnh vực thương mại, Trump tuyên bố trong chiến dịch tranh cử rằng sẽ áp mức thuế chuẩn hơn 10% đối với các quốc gia khác và áp mức thuế cao hơn đối với Trung Quốc. Điều này sẽ có tác động rất lớn đến thương mại toàn cầu và gây tổn hại đến lợi ích kinh tế, thương mại chính đáng của các quốc gia khác. Trước sự bắt nạt về thuế quan của Mỹ, các quốc gia khác buộc phải thực hiện các biện pháp đối phó. Sự tương tác luẩn quẩn giữa các quốc gia trong lĩnh vực thương mại do Hoa Kỳ gây ra sẽ kéo giảm mức độ tự do hóa thương mại toàn cầu, kìm hãm tiềm năng tăng trưởng thương mại và kéo giảm tăng trưởng kinh tế toàn cầu.
Trong lĩnh vực đầu tư, Trump ủng hộ đầu tư chủ nghĩa địa phương. Nếu các doanh nghiệp Mỹ giảm đầu tư ra nước ngoài dưới sự kích thích từ chính sách của Nhà Trắng, và các nước khác cũng thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư trong nước nhằm tránh sự giảm sút đầu tư trực tiếp của họ, thì sự tự do lưu thông đầu tư toàn cầu sẽ phải đối mặt với nhiều sự hạn chế từ chính phủ hơn, quy mô đầu tư trực tiếp xuyên quốc gia toàn cầu sẽ suy giảm. Điều này cũng không có lợi cho sự phát triển kinh tế toàn cầu.
Tác động của việc Trump tái đắc cử đối với nền kinh tế toàn cầu nằm ở sự không chắc chắn do tính chất hay thay đổi và mang tính giao dịch trong định hướng chính sách của ông. Chắc chắn rằng Trump sẽ áp thuế hoặc đe dọa áp thuế để thúc đẩy các “thỏa thuận” có lợi cho lợi ích của Mỹ. Tuy nhiên, quy mô, lộ trình và nhịp độ thực thi thuế quan là không chắc chắn. Trump thích thú với sự không chắc chắn này. Theo quan điểm của ông, đòn bẩy đàm phán chỉ có thể được tối đa hóa trong bối cảnh mơ hồ. Nhưng đối với nền kinh tế toàn cầu, sự chắc chắn là điều kiện tiên quyết để hoạt động kinh doanh tốt hơn và phát triển kinh tế ổn định hơn. Sự không chắc chắn có thể làm tăng lợi thế giao dịch của chính quyền Trump, nhưng nó có thể là nguồn rủi ro lớn nhất cho nền kinh tế toàn cầu và cần phải đề phòng hiệu quả trước những rủi ro của Trump 2.0.
Biên dịch: Hoàng Hải
Tác giả Giáo sư Song Guoyou là Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Hoa Kỳ tại Đại học Phúc Đán.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của Nghiên cứu Chiến lược. Mọi trao đổi học thuật và các vấn đề khác, quý độc giả có thể liên hệ với ban biên tập qua địa chỉ mail: [email protected]