Sau nhiều tháng tranh cãi, Quốc hội Mỹ đã thông qua vào cuối tháng 4 vừa qua gói viện trợ quân sự mới cho Ukraine. Đúng hơn, đây là gói viện trợ quân sự, cả trực tiếp và gián tiếp, cho một vài bối cảnh xung đột hoặc tiềm ẩn nguy cơ mà Mỹ hiện đang đóng vai trò quyết định: Ukraine, Israel và Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Gói viện trợ tổng thể này có trị giá 95 tỷ USD được thông qua sau những cuộc thương lượng căng thẳng giữa đảng Dân chủ cầm quyền với một bộ phận của đảng Cộng hòa cực lực phản đối dành nguồn lực lớn như vậy cho Ukraine thay vì chú trọng tới các vấn đề biên giới với Mexico và Israel (cũng như để đối phó Trung Quốc). Vấn đề người di cư đã được tách ra khỏi gói viện trợ này, thêm nữa con số 60,8 tỷ USD dành cho vấn đề Ukraine được tuyên bố là mang hình thức các khoản vay chứ không phải viện trợ không hoàn lại. Mặc dù ở đây vẫn có một “chiếc bẫy”, khi trao cho tổng thống khả năng xóa những khoản nợ này trong tương lai, nói cách khác là “hoãn binh” vấn đề then chốt này và đẩy trách nhiệm chính trị cho đảng cầm quyền trong tương lai.
Lượng phiếu bầu của khối nghị sĩ Cộng hòa đã chia rẽ với 112 người bỏ phiếu chống, gồm những người thuộc phe cựu Tổng thống Trump và những người chống đối gay gắt chính sách này, và 101 người ủng hộ dự luật, mặc dù chắc chắn là đã có những cuộc đàm phán bao gồm cả ông Trump để đạt được kết quả thuận lợi cuối cùng. Công chúng đều biết quan điểm của cựu tổng thống Trump phản đối việc tiếp tục tiêu tốn ngân sách của Mỹ cho cuộc chiến chống lại Nga, cũng như lời khẳng định (tất nhiên là thậm xưng) của vị cựu tổng thống tài phiệt này rằng ông sẽ chấm dứt cuộc chiến Ukraine chỉ trong vòng 1 tuần (nếu ở cương vị tổng thống Mỹ).
Tuy nhiên, đúng là ngay từ khi cuộc tranh luận về dự luật này bắt đầu, sức ép thông qua gói viện trợ trên là rất lớn. Kể từ vài tháng qua, đã có một chiến dịch truyền thông mạnh mẽ nhằm tác động lên công luận Mỹ về sự cần thiết tức thì của gói viện trợ này, với những nhà phân tích và nhiều nhóm nghiên cứu về quốc phòng nhiều lần quả quyết rằng Ukraine sẽ sụp đổ nếu không được viện trợ cấp tốc kịp thời, và rằng Nga sẽ không dừng lại cho tới khi chiếm được toàn bộ các nước cộng hòa hậu Xô-viết, hay những lập luận tương tự. Trong bối cảnh đó, chính quyền tổng thống Biden đã phải gửi vài đợt viện trợ trực tiếp (cho dù rõ ràng là không đủ) và gây sức ép để Liên minh châu Âu (EU); và ta có thể dự đoán rằng nếu không phải bây giờ, thì rất có thể là năm sau Mỹ sẽ không còn dành một nguồn lực với quy mô đó (cho dù sẽ không cắt đứt viện trợ) cho người Ukraine.
Ngay cả như vậy, lãnh đạo phe Cộng hòa tại Hạ viện, Mike Jhonson – một người phản đối viện trợ, vẫn bào chữa rằng trong gói viện trợ trị giá gần 61 tỷ USD cho Ukraine “có tới 80% dành cho việc tái trang bị vũ khí và dự trữ khí tài của Mỹ”, có thể hiểu là việc thay thế các vũ khí đã được sử dụng, tiêu hao hoặc phá hủy tại Ukraine cũng như việc tái cung cấp cho các kho vũ khí đã hao hụt vì những đợt viện trợ cấp thiết theo nhu cầu của chiến trận. Trước đó, Mỹ đã gửi vào nhiều thời điểm và theo nhiều loại hình khác nhau, các gói viện trợ – phần lớn là quân sự – phục vụ cuộc chiến tại Ukraine.
Mặt khác, các kho vũ khí của phương Tây nói chung đang chạm ngưỡng giới hạn. Trên thực tế, những người châu Âu (cả dự trữ vũ khí, đạn dược lẫn quân lực) đều cho thấy rõ là họ hoàn toàn không có khả năng đối diện một cuộc chiến chống lại Nga như đang diễn ra: mô hình chiến tranh chính quy này đòi hỏi tiêu tốn nhiều nguồn lực con người và vũ khí, với những đơn vị chiến đấu quy mô lớn và tổn thất khổng lồ về vật liệu quân sự và sinh mạng. Đây không phải là tình trạng của Mỹ, nước có khối công nghiệp quân sự năng động hơn nhiều, và do vậy ngày nay đang hưởng lợi từ sự bất lực của châu Âu trong việc tự sản xuất vũ khí và buộc phải mua sắm từ Mỹ.
Tuy nhiên, chính nước Mỹ cũng theo đuổi một học thuyết với những cuộc chiến “nhẹ nhàng” hơn, ngắn hơn và với mức tiêu hao khí tài hạng nặng và sinh mạng ít hơn, nói cách khác gói viện trợ này cũng là một thay đổi về ưu tiên và tái định hướng chi tiêu của Washington, trong bối cảnh họ vẫn phải trang trải những nhu cầu viện trợ cũng cấp thiết cho Israel và chú trọng hơn tới khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương trước “đối thủ hệ thống”: Trung Quốc.
Nội dung của gói viện trợ
Gói viện trợ vừa được Quốc hội Mỹ thông qua có tổng trị giá 95 tỷ USD, liên quan tới các cuộc xung đột bên ngoài lãnh thổ. Trong đó, 26,4 tỷ USD được dành cho Israel, ví dụ như tái trang bị hệ thống “Vòm Sắt”, cung cấp nhiên liệu, đạn dược và linh kiện dự phòng – cần nhớ rằng khối công nghiệp quân sự và bộ máy quốc phòng Israel, nếu thiếu nguồn lực được bơm liên tục từ bên ngoài, sẽ không thể tự mình gánh chịu một cuộc chiến kéo dài ở cường độ cao; chỉ có 8,1 tỷ USD được dành cho khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, với mục đích cân bằng với quy mô triển khai ngày càng lớn của Trung Quốc, nhưng tại khu vực này các đồng minh của Mỹ, như Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan vững chắc hơn nhiều so với Ukraine và có nền kinh tế hùng mạnh hơn Israel, và cũng không trong tình trạng chiến tranh nóng như 2 đối tác còn lại; và 60,8 tỷ USD, phần lớn nhất của gói viện trợ, được dành cho Ukraine.
Phần viện trợ này được phân bổ ra sao? 34 tỷ sẽ được chi cho hạng mục “khả năng vận hành và bảo dưỡng” – bao gồm 23 tỷ USD cho việc tái trang bị vũ khí, khí tài và các cơ sở của Mỹ, và hơn 11 tỷ USD dành cho các hoạt động quân sự của Mỹ tại khu vực; 5,61 tỷ USD được sử dụng để trang trải đạn dược; 3,11 tỷ USD cho tên lửa và 4,4 tỷ USD cho các hệ thống vũ khí khác. Những vũ khí, khí tài này bao gồm từ xe chiến đấu (chẳng hạn như Bradley và Abrams) cho tới (và đặc biệt là) các hệ thống tân tiến mà các đồng minh phương Tây đã yêu cầu từ lâu và là một phần của những nhu cầu thiết yếu tối thiểu mà tướng Zaluzhny (cựu tư lệnh các lực lượng vũ trang Ukraine) từng liệt kê trong “tờ trình” phê phán nổi tiếng của mình trước khi ông mất chức (“Modern positional warfare and how to win in it”, Zaluzhny. V, Kiev, 2023). Nói cách khác, đây từng được gọi là những “vũ khí cứu thế” như đạn pháo thông minh Himars, hay tên lửa chính xác tầm bắn trung bình Atacams (nhiều khả năng Mỹ sẽ bao gồm trong gói viện trợ một số tên lửa Atacams loại bắn xa được 300km để Ukraine có thể tấn công hậu phương của Nga, như các sân bay, cơ sở hậu cần quân đội), thêm vào đó, là các hệ thống phòng không (dành cho các khu vực chiến đấu và các cơ sở hạ tầng then chốt) vốn đóng vai trò thiết yếu để đối phó với thế áp đảo hoàn toàn trên không hiện tại của Nga (theo Bộ Quốc phòng Mỹ, đợt hàng quân sự gửi đầu tiên theo gói viện trợ này trị giá 1 tỷ USD và bao gồm tên lửa phòng không TRIM-7 (dòng chống tên lửa và phòng không n thuộc r) và AIM-9M, (tên lửa không đối không tầm trung, do radar bán dẫn dẫn đường, n thuộc r); pháo phòng không Stinger, đạn pháo HIMARS, đạn cối 60mm, đạn pháo 105 và 155mm, xe chiến đấu bộ binh Bradley, xe phá mìn (MRAPs), xe đa dụng cơ động cao (Humvees), xe hỗ trợ hậu cần, xe rơ-mooc chiến thuật để chuyên chở thiết bị, bệ phóng với hệ thống theo dõi quang học, bệ phóng tên lửa Tow (chống tăng), hệ thống tên lửa Javelin và AT-4 chống tăng, nhiều loại đạn và đang không quân chính xác cao, khí tài không quân, mìn chống tăng, mìn sát thương Claymore (loại chứa đạn chùm n thuộc r), đạn bộc phá, thiết bị nhìn đêm cùng thiết bị, phụ tùng, đạn dành cho huấn luyện, công tác bảo dưỡng).
Phần còn lại của gói viện trợ cho Ukraine chủ yếu được phân bổ cho Bộ Ngoại giao và Cơ quan Viện trợ Phát triển quốc tế của Mỹ (USAID), với các khoản chi có tổng trị giá 11,62 tỷ USD, bao gồm khoản “viện trợ an ninh” 2 tỷ USD, viện trợ kinh tế 7,9 tỷ USD và các hỗ trợ dạng khác 1,6 tỷ USD. Ngoài ra còn một số hạng mụcc nhỏ hơn được xếp và khối “các khoản khác”. Cách liệt kê này có tính tới sự phân biệt “dân sự” và “quân sự”, cho dù chắc chắn các khoản chi trong gói viện trợ này gắn kết với nhau khi mà Ukraine phụ thuộc mọi mặt vào gói viện trợ này để có thể vận hành bộ máy nhà nước thời chiến. Thiếu nguồn viện trợ của phương Tây, người dân quốc gia này sẽ còn không có cả điện hay thông tin liên lạc, và chính quyền sẽ sụp đổ. Ngoài ra, cũng cần hiểu rằng lực lượng các cường quốc phương Tây thực ra đã hiện diện tại Ukraine rồi, có thể được che đậy dưới hình thức quân tình nguyện, các cố vấn không lộ diện, hay các lực lượng đặc nhiệm được ngụy trang. Các lực lượng này ngoài chiến đấu, còn có nhiệm vụ chủ yêu là giúp vận hành các hệ thống vũ khí rất đa dạng và mới mẻ, khi mà quân nhân Ukraine khó có thể điều khiển chúng mà không qua thời gian huấn luyện. Hay trong khía cạnh dân sự, khi Nga phá hủy nhà máy điện chủ chốt của Ukraine, Kiev làm sao có thể xây dựng lại, tất nhiên là với trợ giúp từ phương Tây.
Trạng thái quân sự của Tây Âu
Nhưng bên ngoài những thông tin cơ bản về nội dung, để hiểu được vấn đề viện trợ và hiệu quả của nó, cần phải tham khảo thêm một loạt dữ liệu cơ bản khác. Đầu tiên, một nửa trong số các khoản viện trợ được cấp cho Ukraine cho tới nay là từ châu Âu, chủ yếu là Đức và tiếp theo là Anh. Phần lớn trong số 85 tỷ euro viện trợ cho Ukraine từ Liên minh châu Âu (EU) không mang tính quân sự trực tiếp, trong khi trong số 70 tỷ euro từ Mỹ thì có tới 60% là quân sự. Nhưng Đức viện trợ riêng 22 tỷ euro khác theo danh nghĩa quốc gia, và phần lớn trong số này là quân sự; và tương tự là trường hợp 16 tỷ euro viện trợ của Anh cho Ukraine (trong khi Pháp dù đưa ra rất nhiều tuyên bố mới viện trợ riêng được khoảng 2 tỷ euro). Nên nhớ, trên đây mới là những con số tới tháng 1/2024; kể từ thời điểm đó, trong khi châu Âu cố gắng gia tăng viện trợ thì nguồn cung tại Mỹ bế tắc do cuộc tranh cãi giữa 2 đảng tại nghị viện cho tới cuối tháng 4 vừa qua (trong khoảng thời gian này, Washington vẫn gửi một số gói viện trợ khẩn cấp trị giá vài trăm triệu USD mỗi gói). Đặc biệt, các khoản viện trợ từ các nước Đông Âu là rất lớn nếu tính theo tỷ lệ với GDP tương ứng của mối nước, cho dù số lượng tuyệt đối không mang nhiều ý nghĩa so với tổng thể:
Chú thích: Biểu đồ gồm 2 cột gồm + Bên trái là xếp hạng theo giá trị viện trợ (đơn vị tính là tỷ euro, trong đó mầu đỏ là viện trợ quân sự, xanh nhạt là viện trợ nhân đạo và xanh đậm là viện trợ tài chính) với thứ tự lần lượt là Liên minh châu Âu, Mỹ, Đức, Anh, Na Uy, Nhật Bản, Canada, Ba Lan và Hà Lan + Bên phải là xếp hạng viện trợ theo tỷ lệ so với GDP (trong đó xanh đậm là viện trợ song phương, xanh nhạt là qua cơ chế EU, lưu ý tỷ lệ viện trợ / GDP chỉ tính viện trợ song phương) với thứ tự lần lượt là Litva, Estonia, Na Uy, Đan Mạch, Latvia, Slovakia, Ba Lan, Hà Lan và Phần Lan Nguồn: Viện Nghiên cứu kinh tế thế giới Kiel – Kiel Institute for the World Economy)
Ngoài giá trị khá lớn từ những con số ở trên, cần chú ý thêm một số điểm. Trước hết, nếu quả là trong một số trường hợp viện trợ cho Ukraine là những đợt chuyển vũ khí lấy trực tiếp từ kho dự trữ của các nước phương Tây (đặc biệt là các đợt viện trợ quân sự, vũ khí sát thương), thì trong đa phần các trường hợp khác chúng được đặt hàng cho các doanh nghiệp mà khả năng hoàn thành nhanh chóng hợp đồng có thể khác nhau, và thường “tranh thủ” những hợp đồng viện trợ này và thổi giá chi phí chiến tranh cho các nước phương Tây, trong khi bên phía Nga nhưng trường hợp này ít xẩy ra hơn (cho dù cũng không thể loại trừ những hình thức tham nhũng khác), do Moskva nhìn chung nắm trực tiếp công nghiệp quốc phòng, trong một hệ thống sản xuất có tỷ lệ sở hữu nhà nước cao hơn và một nền kinh tế mang tính thời chiến hơn. Đơn cử như vài tháng trước, các nước châu Âu đã đưa ra cam kết gửi 2 triệu đơn vị đạn dược cho Ukraine nhưng đã không thể hoàn thành cho dù chỉ là một phần của cam kết đó, trong khi Nga chỉ trong thời gian ngắn đã thu gom được từ các nước “thân thiện”, như Iran và Triều Tiên, để giải quyết được nhu cầu cấp bách theo thời điểm và hiện giờ đã tự sản xuất hàng triệu đơn vị mỗi tháng đủ đáp ứng nhu cầu cuộc chiến. Yếu tố này không hề kém quan trọng, khi chúng ta đang đứng trước một loại hình chiến tranh trong đó sức mạnh hỏa lực đạn pháo có tính quyết định, cả từ mặt đất lẫn trên không. Đó là kiểu “chiến tranh không hối tiếc”, và nếu bạn bị buộc phải tiết kiệm đạn pháo, thì sớm hay muộn bạn sẽ bị đánh bại.
Ở đây xin làm rõ thêm một điểm đã được đề cập qua ở trên: các nước châu Âu phương Tây hiện tại không hội đủ điều kiện để đối mặt trực tiếp một cuộc chiến quy mô đòi hỏi sử dụng vũ khí và đạn dược cấp đại trà. Và càng chắc chắn hơn họ không thể gánh chịu nổi mức tiêu hao lớn một “vật liệu chiến tranh” cốt lõi khác: con người. Bất kỳ ai so sánh một cách trừu tượng hay cụ thể Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Italy, Pháp, Anh hay Đức đều sẽ thấy chúng ở mức cao hơn rất nhiều so với chỉ số tương tự của Nga. Tuy nhiên, cái quyết định không phải GDP – người ta có thể sản xuất rất nhiều đậu tương, hay thổi phồng GDP bằng cách tăng mạnh xuất khẩu dầu lửa nhưng vẫn là một quốc gia yếu đuối. Yếu tố quan trọng hơn trong trường hợp này là các thành tố của GDP và cách thức tổ chức, mức độ bổ trợ và nội địa hóa của nền kinh tế. Nga có một bộ máy công nghiệp quân sự hùng mạnh hơn rất nhiều so với tất cả các nước châu Âu khác cộng lại; quốc gia Á – Âu này có công nghệ, có những mặt hàng và tài nguyên thiết yếu có thể xuất khẩu mà thế giới luôn có nhu cầu, đồng nghĩa với khả năng đảm bảo thặng dư thương mại để trang trải những phí tổn quân sự khổng lồ mà không để ảnh hưởng nhiều (ít nhất tới lúc này) tới nền kinh tế hay làm hao mòn mức sống của dân chúng.
Các nước EU, về tiềm lực cũng có thể có được quân đội quy mô và một nền công nghiệp quốc phòng rất phát triển nếu chịu thực hiện những hy sinh tương ứng, đã phó thác gánh nặng gần như hoàn toàn cho Mỹ. Và do vậy vào thời điểm này, cho dù sỡ hữu nền khoa học và công nghệ cao cho phép có thể sản xuất những vũ khí chất lượng, nhưng họ không thể sản xuất chúng với số lượng cần thiết: để có thể đạt được cấp độ này, họ phải thay đổi cấu trúc nền kinh tế, dành một phần quan trọng của sản xuất công nghiệp cho các vấn đề quân sự.
Tóm lại, các nước Tây Âu hiện đang đối mặt với chính lựa chọn mà Hermann Göring từng đưa ra cho người Đức vào năm 1936: “bơ hay đại bác”, mà sau này được phát triển thành lý luận song đề kinh tế về quản lý tài nguyên hiện hữu của Paul Samuelson năm 1948. Trên thực tế, đây vẫn chỉ là nan đề xưa cũ về phân bổ nguồn lực hữu hạn cho các sản phẩm tiêu dùng tức thì cho người dân hay cho những sản phẩm hữu dụng về dài hạn và xét tới cuối cùng có thể hữu ích hơn. Nếu nhà lãnh đạo Nazi danh tiếng (Göring) khi đó đã lập luận trước các thính giả của mình rằng: “Bơ sẽ làm chúng ta béo hơn, nhưng đại bác sẽ làm chúng ta mạnh mẽ hơn”, thì giờ đây người Tây Âu không đắn đo lựa chọn việc giữ thân béo mập (họ càng có lý do ngả theo hướng này nếu xét tới số phận của vị tướng không quân phát-xít Đức và các đồng đội của y). Chính vì thế giờ đây châu Âu đang trong chiến dịch thay đổi ý kiến của người dân về các vấn đề quân sự. Theo một số nghiên cứu tại gần đây, tại các nước Tây Âu, tỷ lệ người dân sẵn sàng chiến đấu vì một lý do không phải cá nhân thấp hơn con số 10% rất nhiều, và một khi họ không sẵn sàng chiến đấu cho tổ quốc mình, thì chắc chắn họ chẳng thể làm điều đó cho Ukraine, nếu không có một công tác tuyên truyền khổng lồ nhồi nhét cảm giác bài Nga. Cần nhấn mạnh là cả 2 đặc điểm này đều không có tại Mỹ hay các nước Đông Âu (biểu đồ trên đã cho thấy tỷ lệ tài nguyên quốc gia khá cao mà khu vực này dành cho cuộc chiến tại Ukraine, so với các đối tác Tây Âu), và càng không phải nói tới phần còn lại của thế giới (ngoại trừ Nhật Bản, nước cũng như Đức từng bị đánh bại trong Chiến tranh Thế giới thứ hai). Tất nhiên, ý kiến của người dân vẫn có thể thay đổi.
Tình trạng huy động quân của Ukraine
Như chúng ta đã biết có 2 yếu tố then chốt và khác biệt về bản chất trong quá trình tiêu hao sản xuất. Trong chiến tranh cũng không khác. Đó là vốn cố định và vốn biến động. Vốn cố định trong chiến tranh là vũ khí, hay vốn chết: xe tăng, máy bay, pháo, đạn, thiết bị bay không người lái, phần mềm máy tính, vệ tinh, v.v… Còn vốn sống chính là con người, yếu tố mang lại giá trị cho vốn chết. Phần trên đã phân tích về vốn cố định, nhưng phải có con người mới có thể vận hành các phương tiện chiến tranh đó và khiến nó có hiệu quả (giết chóc, đe dọa, áp đặt ý chí của một bên lên bên còn lại và giành quyền kiểm soát từng khu vực). Và ở khía cạnh này, Ukraine đang ở thời khắc khá ngặt nghèo.
Ngặt nghèo cả về số lượng và ngặt nghèo cả về một yếu tố cốt lõi khác mà tạm gọi là “chất lượng”, nhưng trên thực chất đúng hơn là “tinh thần”, mà như Clausewitz đã chỉ ra, là yếu tố quyết định quân số và vũ khí có hiệu quả cao hay thấp. Trong khía cạnh con người, có thể đưa ra một số đánh giá. Đầu tiên, như đã chỉ ra trong trường hợp GDP, cho dù yếu tố số lượng thanh niên và người khỏe mạnh trong một quốc gia cũng quan trọng, nhưng quan trọng hơn là bao nhiêu người trong số họ sẵn sàng chiến đấu với niềm tin, hay ít nhất là không bị ép buộc, để có thể hoàn thành nhiệm vụ một cách hiệu quả. Ukraine, với dân số ít hơn Nga khá nhiều, cho tới nay đã chứng tỏ được rằng họ có một tỷ lệ khá lớn binh lính chiến đấu tốt. Tuy nhiên, đây là những người tự nguyện và được động viên từ đầu cuộc chiến, và thậm chí họ từng nắm lợi thế về số lượng so với Nga tại một vài khu vực chiến dịch trong những giai đoạn nhất định. Nhưng lượng binh sĩ ưu việt này bì hao phí dần (tử trận, bị thương) và số còn lại đã trải qua nhiều tháng thậm chí hàng năm chiến đấu liên tục không được nghỉ phục hồi hoặc thăm nhà.
Nhưng nghiêm trọng hơn, cho tới nay chính sách của Ukraine và phương Tây là quảng bá về một chiến thắng trước quân Nga trong một thời gian không quá dài. Tất nhiên đây là một hình thái tuyên truyền cần thiết để khích lệ tinh thần binh sĩ và dân chúng với một chân trời trong tầm mắt, và nó càng được đẩy mạnh với làn sóng thông tin rộng rãi về cuộc phản công năm 2023 với ý đồ đánh tới tận Crimea, với “hậu thuẫn lớn” về vũ khí và huấn luyện từ phương Tây. Nhưng sự thật là toàn bộ chiến dịch này, dưới bất kỳ góc nhìn nào, là một thất bại thảm hại của Ukraine.
Sau khi thổi vào chính phủ Ukraine niềm tin chiến thắng, trước thất bại của người Nga với ý đồ đảo ngược sự kiện “EuroMaidan” và những thành tích của quân đội Ukraine tại Kherson và Kharkov, phương Tây đã nhận xét sai tình thế khi phóng đại khá nhiều ưu điểm từ những thành tích từ phía Ukraine và năng lực của họ, trong khi đánh giá thấp khả năng thực tế của Nga. Đợt phản công 2023 của Ukraine diễn ra với tinh thần phấn khích thái quá của phương Tây đã thất bại thảm hại với rất nhiều thương vong, điều khá hiển nhiên với nhiều chuyên gia quân sự không bị ảnh hưởng nhiều bởi những luận điệu toàn cầu hóa. Hơn nữa, nó còn thất bại với do những sai lầm lẽ ra phải được thất trước. Kể từ thời điểm đó, các đồng minh phương Tây chỉ chứng kiến những bước lùi và suy kiệt nhân lực và vật lực bên phía Ukraine. Phương Tây đã thuyết phục Ukraine có thể bay cao mà không cần đủ lông cánh, và thất bại của chiến dịch phản công cùng những mất mát liên tục sau đó rõ ràng làm ảnh hưởng tinh thần chiến đâu. Hiện tại, theo những báo cáo và tường thuật công khai, tinh thần đó đang ở mức thấp; tất nhiên điều này không có nghĩa rằng quân đội Ukraine đang ở gần mức đầu hàng, nhưng chắc chắn hiện tại họ đã mất niềm tin và mục tiêu rõ ràng.
Chính vì vậy mà gói viện trợ từ phương Tây cũng được tính toán để tạo một “hiệu ứng tinh thần”. Vì trên thực tế, nó cũng không có đích đến, cụ thể hơn không có ai để sử dụng, nếu Ukraine không động viên thêm khoảng nửa triệu quân nữa, một con số dưới bất kỳ hoàn cảnh nào cũng là rất cao tại một đất nước đã bị di cư mất vài triệu dân (trong đó có rất nhiều thanh niên), một bộ phận đáng kể dân chúng khác sống trong những vùng do Nga kiểm soát và đa phần còn chiến đấu cho Nga, và với một quân đội đã có nhiều quân nhân xấp xỉ tuổi 60. Vì những nguyên nhân này mà Ukraine đã buộc phải điều chỉnh luật tuyển mộ để đảm bảo khả năng động viên khi cần toàn bộ những người trong điều kiện có thể chiến đấu, xóa bỏ những cấm cản và giới hạn hiện có. Điều này không đồng nghĩa với việc Kiev sẽ tiến hành tổng động viên ngay lập tức, nhưng họ đang tạo ra khuôn khổ pháp lý cần thiết để có thể tiến hành bước đi cực đoan này khi nhu cầu chiến tranh bắt buộc.
Nhưng điều này đã tạo ra nan đề cho Ukraine, với tác động về tinh thần chiến đấu đã có thể nhận thấy trong xã hội quốc gia Đông Âu này. Trong văn bản đã nêu của tướng Zaluzhny vào cuối năm 2023, nhà quân sự này đã chỉ ra nhu cầu phải tiến hành động viên quân nhân rộng rãi tại Ukraine trước ưu thế vượt trội về quân số và khí tài khi đó (và ngày nay còn hơn nữa) của quân đội Nga, và rằng quân đội Ukraine sẽ không có cơ hội chiến thắng trong hoàn cảnh khi đó. Chính phủ của tổng thống Zelensky đã bác bỏ vài nhận định của vị tướng thất sủng này, nhưng sau đó đã bắt đầu một chiến dịch gắt gao kêu gọi viện trợ ồ ạt từ phương Tây và chuẩn bị các bước đi để động viên diện rộng. Và trong những tháng đó quân Nga đã không ngừng lấn tới trên mặt trận, ít hay nhiều, nhanh hay chậm còn tùy vào quan điểm đánh giá, nhưng không thể phủ nhận họ đang giành chiến thắng từng bước và liên tục trong giai đoạn này.
Cuối cùng thì dự luật về động viên quân đội cũng được Quốc hội Ukraine thông qua vào cuối tháng 4 với phiếu bầu chia rẽ. Những điểm chính của văn bản này là gì? Tuổi nghĩa vụ quân sự được hạ từ 27 xuống 25 (không nhiều), nói cách khác là chính quyền Ukraine lo ngại một làn sóng di cư những thanh niên trẻ tuổi muốn trốn quân dịch, nhưng đồng thời cũng mong đợi đưa vào hàng ngũ nhanh nhất có thể nhiều nam thanh niên trong lứa tuổi này (25 và 26 tuổi). Cần nhớ rằng những người tình nguyện chiến đấu ở lứa tuổi này trên thực tế đều đã có mặt trong quân đội, chính vì vậy Kiev bổ sung cả các yếu tố thưởng (bằng kinh tế, giống như tại Nga) và phạt (tăng nặng các chế tài cho tội trốn quân dịch).
Dựa vào văn bản này, Kiev cũng sẽ tiến hành điều tra toàn bộ nam thanh niên từ 17 tới 60 tuổi, tình trạng sức khỏe và năng lực của họ (trong chiến tranh cần nhân sự trong nhiều lĩnh vực, không chỉ giới hạn về nhu cầu bộ binh nơi tuyến đầu, và trong chiến tranh hiện đại ngày nay thì nhu cầu càng đa dạng) – một thống kê cốt tử mà Chính phủ Ukraine không thể nắm được kể từ đầu cuộc chiến, nếu biết rằng, theo một ước tính rất tương đối, đã có khoảng 10 triệu công dân Ukraine rời bỏ đất nước, tính tổng cả những người đã sang phương Tây hay phương Đông (Nga) hoặc đang sống trong những vùng do Nga kiểm soát hiện tại. Điều đáng nói là theo một số nghiên cứu độc lập thì trong số những người Ukraine rời bỏ quê hương, tỷ lệ thanh niên là khá cao.
Văn bản luật mới cũng loại bỏ quy định nghĩa vụ quân sự chỉ kéo dài 36 tháng, nói cách khác là các quân nhân nghĩa vụ giờ đây sẽ phục vụ cho tới khi chiến tranh kết thúc hoặc … tử trận. Về mặt khuyến khích, Kiev đưa ra những quyền lợi kinh tế cao hơn với hi vọng tuyển quân dễ dàng hơn. Lương trung bình tại Ukraine là khá thấp ngay cả từ trước khi có chiến tranh. Giờ đây mỗi quân nhân sẽ nhận được 1.500 USD mỗi tháng, một khoản lương vẫn là thấp so với mặt bằng Tây Âu, nhưng là cao đối với người Ukraine. Nam giới từ 17 tuổi trở lên có phải trình diện và sẽ lĩnh án phạt nặng nếu trốn tránh việc đăng ký nghĩa vụ quân sự. Hình phạt chủ yếu không phải là án tù, một án phạt vô nghĩa và vô tác dụng trong hoàn cảnh hiện tại, mà thay vào đó những người vi phạm có thể sẽ bị gửi tới các đơn vị trừng giới, nói cách khác là các đơn vị quân đội đối diện nhiều rủi ro nhất, trong khi những người tình nguyện sẽ được đối xử ưu đãi hơn tùy thuộc vào điều kiện và năng lực của họ – nói cách khác là có khả năng cao hơn tránh được các đơn vị bộ binh mà giờ đây thường được gọi là “thịt mồi cho pháo”. Trong những trường hợp chỉ xử lý hành chính, người không cập nhật các dữ liệu cá nhân tại văn phòng quân sự tại địa phương sẽ phải nộp phạt từ 400 – 530 euro, và các chế tài bổ sung khác như tước bằng lái xe; các cơ quan đại diện ngoại giao của Ukraine giờ đây sẽ chỉ cấp căn cước hay hộ chiếu cho các nam công dân đã cập nhật dự liệu quân sự của mình; ở chiều ngược lại luật mới trao cơ hội cho những người tình nguyện được lựa chọn một đơn vị trong Quân đội để phục vụ và ký hợp đồng với Bộ Quốc phòng, ngoài ra còn bổ sung một số loại hình nghỉ phép và quy định thưởng tiền cho việc thu được vũ khí, khí tài của đối phương. Hồi đầu tháng 4, tổng thống Zelensky từng tuyên bố rằng “chúng ta không cần nửa triệu (lính mới)”, nhưng với luật mới Ukraine trên thực tế có thể huy động thêm nửa triệu quân, đúng như đề xuất của Zaluzhny trước đây.
Báo chí Đức gần đây còn dẫn lời một cựu sĩ quan cấp cao Ukraine nhận định rằng chỉ trong thời gian ngắn tới Kiev sẽ buộc phải áp dụng các biện pháp ít được lòng dân như giảm độ tuổi tuyển quân xuống mức 21 tuổi, vì “mọi người phải chiến đấu; vì không có chiến sĩ để bảo vệ Tổ quốc thì những lựu đạn, đạn dược, tên lửa, thiết bị bay và tất cả công nghệ tân tiến kia chỉ là sắt vụn. Chúng ta (Ukraine) thật sự cần một cuộc tổng động viên”. Đó là những lời trải lòng quá thật thà về thiếu hụt tuyển dụng và bất lợi quân số của Ukraine trước Nga, đối thủ hiện vẫn đang đáp ứng đủ nhu cầu về binh sĩ và khí tài mà chưa cần những điều chỉnh làm xáo trộn xã hội.
Thế tấn công của Nga và gói viện trợ
Để đánh giá tính hiệu quả của viện trợ từ phương Tây và mức độ động viên của Ukraine, cần phải tính đến 2 yếu tố ngoài Ukraine. Thứ nhất là khả năng của Nga trong việc tiếp tục đà tấn công hiện tại, giành những chiến thắng mang tính chiến lược và/hoặc bào mòn đáng kể Ukraine trong hoàn cảnh và thời điểm có lợi cho họ hiện tại. Thứ hai là mức độ và thời gian những khoản viện trợ từ phương Tây đến với Ukraine, yếu tố sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả của nỗ lực ổn định tiền tuyến của Kiev.
Hãy thử suy luận về vấn đề huy động quân. Giả sử rằng Ukraine có thể động viên được hàng trăm nghìn tân binh, họ sẽ phải được tập trung và trải qua huấn luyện, nhanh nhất và cơ bản nhất là trong 2 tháng – nhưng mức độ này cũng đồng nghĩa với thương vong lớn hơn trong tương lai – nhưng càng kéo dài thời gian huấn luyện và chuẩn bị thì sẽ càng có thêm thời gian cho quân đội Nga tận dụng ưu thế. Lựa chọn khả dĩ nhất có lẽ là trong 2 tháng một bộ phận tân binh sẽ được đưa ra tiền tuyến, và phần còn lại sẽ tiếp tục huấn luyện, khoảng từ 4 – 6 tháng. Như vậy về nhân lực, Nga sẽ còn duy trì ưu thế trong một thời gian tương đối.
Về vật lực, kể từ khi thông qua gói viện trợ, Mỹ đã ra lệnh vận chuyển khí tài tới nhiều điểm khác nhau. Quan chức mỹ ngày 22/4 thông báo rằng chuyến viện trợ đầu tiên sẽ bao gồm xe bọc thép, xe chiến đấu bộ binh Bradley, Humvees và phương tiện vận chuyển cá nhân. Hãy cho rằng những phương tiện đầu tiên này sẽ mất khoảng hơn 1 tháng để tới được Ukraine. Tổng thống Mỹ Biden cũng cam đoan với người đồng cấp Zelensky rằng Washington sẽ cho phép chuyển giao thêm tên lửa ATACMS cho Kiev, tuy nhiên, thông cáo báo chí từ phía Ukraine, cho tới thời điểm này, vẫn chưa cung cấp chi tiết liệu số tên lửa này có nằm trong đợt hàng đầu tiên, hay về chủng loại và tầm bắn của chúng. Cho tới nay, Washington mới cho phép chuyển giao phiên bản tầm bắn ngắn của loại tên lửa này (160km), trong khi Kiev muốn được tiếp cận mẫu có tầm bắn 300km để tấn công được các mục tiêu quân sự sâu trong nội địa Nga, yêu cầu mà Viện Nghiên cứu Chiến tranh (ISW) cho rằng về lâu về dài sẽ được chấp nhận, nhưng vẫn chưa thể biết thời điểm cụ thể. Tuy nhiên trong bất kỳ trường hợp nào, ngoài việc triển khai các tên lửa này, mà chắc hẳn 2 bên đã có kế hoạch cụ thể, cần phải biết cách vận hành chúng, cho dù có thể giả sử rằng có thể có chuyên gia quân sự Mỹ theo kèm để hướng dẫn sử dụng, hoặc Mỹ đã có sẵn các chuyên gia tại Ukraine từ những đợt gửi trước (với quy mô nhỏ hơn lần này). Điều quan trọng là rất có thể phải ít lâu sau khi được triển khai, các vũ khí này mới được sử dụng với hiệu quả nhất định.
Tất cả những tính toán của Kiev và Washington đang hướng tới việc chặn lại đà tiến đều đặn của quân đội Nga sau khi chiếm được Bakhmut, Avdiivka và gần đây hơn là những cứ điểm gần Kharkov. Ngoài vấn đề nhân lực, một điểm yếu cố hữu khác của quân đội Ukraine so với địch thủ là sự thua sút hoàn toàn về pháo binh và phòng không. Người Nga đã giành được thế thống trị hoàn toàn trên không và ưu thế vượt trội về pháo binh buộc các lực lượng Ukraine thường phải rút lui hoặc bước vào các trận đánh bộ binh trong tình trạng tổn thất nặng nề. Ngoài ra các lực lượng Nga có thể thoải mái tấn công hậu tuyến hay sâu vào hậu phương Ukraine. Từ góc độ này, câu hỏi hiện tại chỉ là liệu Nga có giành được một chiến thắng “dứt điểm” được chờ đợi nhưng chưa thành hiện thực hay tiếp tục tiến từng bước trong các trận đánh tiêu hao từng cứ điểm để cuối cùng, khi các đạo quân Ukraine không được nghỉ ngơi rơi vào thế kiệt quệ rồi sụp đổ.
Phương Tây mong đợi với gói viện trợ mới có thể cản được đà tiến của người Nga, rằng Moskva sẽ đánh mất nhịp điệu mà họ đã duy trì từ vài tháng qua, khi các lực lượng Nga tấn công hầu như trên toàn tuyến và có những bước tiến đáng kể (đối với một cuộc chiến giành giật cứ điểm), đặc biệt tại mặt trận Donetsk theo các hướng Kramatorsk và Sloviansk (để hoàn thành mục tiêu nối liền toàn bộ các khu vực vùng Donbass dưới chủ quyền thực tế của Nga), và gần đây là phía mặt trận Kharkov. Nếu Nga chiếm được các mục tiêu mang tính chiến lược nói trên thì đó sẽ thực sự là một chiến thắng quan trọng. Cần nhớ rằng bất kỳ cuộc đàm phán hòa bình nào cũng bao gồm các yếu tố quân sự và ngoài quân sự, và trong đó những diễn biến trên chiến trường luôn chiếm một vị trí then chốt.
Mặt khác, các phương tiện truyền thông phương Tây vẫn theo đuổi các báo cáo về khả năng các lực lượng vũ trang Nga đang chuẩn bị một cuộc tấn công lớn. Lập luận dẫn đến giả thuyết này khá hợp lý: đây là thời điểm yếu đuối nhất của Ukraine kể từ đầu cuộc chiến, và Nga cần tận dụng nó, khi họ đã tạo sức ép liên tục và đạt được thành công nhất định, và có thể những cứ điểm chiếm được trong vài tháng qua sẽ được sử dụng làm điểm xuất kích hướng tới những mục tiêu chiến dịch lớn hơn, có thể là Kramatorsk, Sloviansk hay Kharkov như đã nói (có thể loại trừ Zaporizhia, và chắc chắn nên loại trừ Odessa vì đánh chiếm nó đòi hỏi những nỗ lực quân sự quá mức dưới hình thức chiến tranh mà chúng ta được chứng kiến tới nay).
Tất nhiên hiện tại dường như là một thời điểm khả thi cho Nga. Nhưng trong thời gian qua chiến trường đã chứng minh không thuận lợi cho các chiến dịch lớn đòi hỏi tập trung đông các lực lượng, và khi mà với điều kiện hiện nay mọi sự việc đều có thể được tường thuật “trực tuyến” thì mọi vị trí và vận động đông người đều bị đối phương soi rõ. Đây không nghi ngờ gì là yếu tố bất lợi tới ám ảnh cho những cuộc tấn công quy mô. Nhưng như đã chỉ ra, đây là thời điểm mà lực lượng Ukraine đang thiếu thốn nhiều phương tiện cần thiết khiến Nga có thể mở rộng hơn nữa các ưu thế của mình, và theo lý thì Moskva cần tận dụng thời cơ này, với giả định là nó kéo dài khoảng gần 2 tháng nữa trước khi quân đội Ukraine nhận và sử dụng một cách tương đối những viện trợ quân sự mới từ phương Tây.
Tóm lại, việc Nga đang tính toán tới việc thay đổi cách thức vận động trong 1 năm qua, với các trận đánh theo từng cứ điểm một, bằng một vận động có quy mô hơn hướng tới những chiến thắng vang dội hơn trong một khoảng thời gian ngắn, là có cơ sở và có khả năng; nhưng dẫu sao từ bên ngoài, không ai có thể biết chính xác những suy tính của Bộ Tham mưu Nga hay những gì quân đội nước này sẽ làm, và những suy đoán sai lầm sẽ rất dễ dẫn tới thất bại như cuộc phản công của Ukraine hồi cuối năm ngoái, với cái giá phải trả là rất nhiều sinh mạng.
Mặt khác, phải thừa nhận rằng kể từ khi Nga áp dụng mô hình vận động hiện tại và củng cố các lực lượng tiền tuyến của mình họ đã đoạt được một loạt thành tích cả trong tấn công lẫn phòng ngự, mặc dù ở cấp độ nhỏ nhưng mang tính hệ thống. Kể từ khi tướng Surovikin nắm quyền tư lệnh chiến trường, về cơ bản quân đội Nga đã chuyển hẳn sang chiến lược “chiến tranh tiêu hao” với kết quả rõ ràng nghiêng về phía Moskva hơn là Kiev. Thực tế là Ukraine đã không có chiến tích nào đáng kể từ thời điểm tái chiếm được Kherson và Kharkov, khi Nga vẫn chưa thích nghi được với tình hình mới và phải trông cậy vào sự tham gia diện rộng của các lực lượng đánh thuê của Wagner và từ Chechnya, đồng thời phải kế hoạch hóa nền kinh tế và điều động các lực lượng quân đội phù hợp ra tiền tuyến – các nhiệm vụ đòi hỏi thời gian nhất định.
Học thuyết mà Nga áp dụng hiện giờ vẫn ưu tiên đặt cược vào quá trình tiêu hao, nói khác là chờ đợi chẩy máu dần, hơn là vào một giải pháp chớp nhoáng với các chiến dịch quy mô lớn. Trong khi Ukraine, cho dù các đồng minh phương Tây có trông đợi vào các cuộc tấn công giả thuyết ra sao đi nữa, vẫn không thể làm gì khác ngoài việc cầm cự, với nhiều viện trợ và thậm chí là cả vận may. Chiến tranh ngày nay vẫn đang chờ đợi những nhà cầm quân thiên tài sáng tạo ra những học thuyết và chiến thuật mới để thích nghi và tận dụng những công nghệ tân tiến nhất. Cho tới khi họ xuất hiện, thì chiến thuật đánh chiếm từng điểm vẫn đang chiếm ưu thế, với phương thức như thống chế Petain từng chỉ ra từ Chiến tranh thế giới thứ nhất: “pháo binh khuất phục, bộ binh chiếm giữ”.
Với chiến thuật truyền thống này, Nga đã thắng trận tại Bakhmut (Avdiivka) và bẻ gẫy thế công của Ukraine, khiến đối thủ của mình lao đao. Vậy tại sao họ phải thay đổi (hơn nữa nếu họ đang chuẩn bị ở cấp độ quốc gia cho nhiều năm chiến tranh)? Câu trả lời có thể là việc kéo dài cuộc chiến không có lợi cho ai cả. Cho dù hôm nay Nga đang nhận nhiều hiệu ứng tích cực hơn tiêu cực, rằng về mặt địa chính trị thì đây là một dấu hiệu của một trật tự đa cực mới, và rằng cuộc chiến thúc đẩy quá trình “ngắt kết nối” Nga với hệ thống toàn cầu… Nhưng số lượng hàng nghìn người thương vong và việc kích hoạt nền kinh tế chiến tranh sẽ phải trả giá trong trung hạn nếu kéo dài quá lâu. Và khác với Mỹ (đối thủ thực sự Nga muốn đua tranh), Nga phải trả giá cho chiến tranh bằng người và của của chính mình. Vì thế, đây là lựa chọn không thể biết trước và quyết định thuộc về Bộ Tham mưu và giới lãnh đạo tối cao của Nga. Chỉ có một điều chắc chắn là sự tiêu hao tương đối (tỷ lệ tổn thất về người và của trên tổng dân số và giá trị nền kinh tế) của Ukraine là cao hơn nhiều so với của Nga.
Chiến tranh, từ một góc độ quan sát khác, là thời điểm thích hợp cho những phát minh và thử nghiệm những công nghệ và sáng chế mới. Trong cuộc chiến tại Ukraine, thế giới đã được chứng kiến bước nhẩy vọt của nhiều hệ thống (ví dụ như thiết bị bay không người lái hay UAV) và sẽ còn được chứng kiến công nghệ robot và trí tuệ nhân tạo ứng dụng rộng rãi hơn vào xung đột. Nhưng những cái đầu tỉnh táo cần loại bỏ ý nghĩ về những “vũ khí diệu kỳ”: không có “tên lửa siêu vượt âm”, “bom thông minh”, robot hay bất kỳ hình thái vũ khí nào có thể duy trì lợi thế quá lâu. Chiến tranh là một vòng xoáy chôn ốc những phát minh và phản phát minh, bất ngờ và thích nghi giữa các bên đối địch; nói cách khác một vũ khí mới có thể phá vỡ cân bằng trong một thời điểm và tại một mặt trận nào đó, nhưng chỉ trong khoảng thời gian khi đối thủ vẫn chưa thích nghi và triển khai các vũ khí đáp trả phù hợp. Chính vì vậy, hiệu quả của gói viện trợ quân sự Mỹ và phương Tây nói chung sẽ còn phụ thuộc vào khả năng và tốc độ thích nghi của Nga, cũng như mức độ linh hoạt từ các đồng minh của Ukraine trong việc cung cấp vũ khí tùy theo tình hình chiến sự cụ thể.
Kết luận
Bài viết này không nhằm phân tích những đề tài chiến thuật chiến tranh hay tình hình các mặt trân hay hoạt động của các đơn vị quân sự tại Ukraine, mà để trình bầy một loạt những giả thuyết xung quanh gói viện trợ mới của Mỹ cho Ukraine. Tuy nhiên vấn đề cốt lõi không nằm ở viện trợ dành cho Ukraine hôm nay, mà là thời kỳ tái định hình trật tự thế giới và các khu vực ảnh hưởng đang diễn ra, với chỉ dấu rõ ràng về một thời kỳ của những cuộc xung đột vũ trang. Điều này đồng nghĩa với việc gia tăng chi phí quân sự trên toàn thế giới. Mỗi một cường quốc, quốc gia có tham vọng cường quốc hay một đất nước đơn giản là muốn bảo vệ hiệu quả các nguyên tắc chủ quyền của mình và/hoặc vươn tầm khu vực đều đang tăng cường vũ trang để tự vệ hoặc răn đe và chinh phục. Thậm chí ngay cả với các nước đang phát triển đây cũng là một thực tế khách quan không thể làm ngơ, cho dù với các nước này một lựa chọn kiểu “bơ hay đại bác” có thể bị xem là lố bịch, thì họ cũng không thể bỏ qua những bài học lịch sử rằng việc thiếu vắng “đại bác” nhiều lần là tiền đề khiến những miếng “bơ” bị tước đoạt./.
Phụ lục
Chú thích: biểu đồ này gồm 2 phần: + Phần so sánh bên trái chỉ mức độ gia tăng chi tiêu quân sự từ 2022 đến 2023 của các thành viên chủ chốt của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và các nước có xung đột, theo thứ tự lần lượt là: Ba Lan, Phần Lan, Ukraine, Đan Mạch, Thổ Nhĩ Kỳ, Nga, Israel, Hà Lan, Thụy Điển, Nhật Bản, Tây Ban Nha (bôi đỏ), Đức, Anh, Canada, Pháp, Trung Quốc, Na Uy, Mỹ, và Italy + Phần biểu đồ gắn với bản đồ thế giới bên phải: mức chi tiêu quân sự của một số quốc gia đáng chú ý trong năm 2023, với đơn vị tính là triệu USD, trong đó có: Mỹ - 916.000; Đức – 66.800; Anh – 74.900; Pháp – 61.300; Tây Ban Nha (bôi đỏ) – 23.700; Ba Lan: 31.600; Ukraine:64.800; Israel – 27.500; Italy – 35.500; Nga – 109.000; Trung Quốc – 296.000, và Nhật Bản – 50.200)
Biên tập và chuyển ngữ: Uyển My
Về tác giả: Guillermo Martin Caviasca là Giáo sư Sử học người Argentina hiện đang giảng dậy tại Đại học Buenos Aires và Đại học quốc gia La Plata (Argentina).
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của Nghiên cứu Chiến lược. Mọi trao đổi học thuật và các vấn đề khác, quý độc giả có thể liên hệ với ban biên tập qua địa chỉ mail: [email protected]